Áp lực của Mỹ có thể đưa chiến tranh đến một kết thúc có thể chấp nhận được như thế nào
Foreign Affairs, February 24, 2025
Thomas Wright
Đỗ Kim Thêm dịch

Ảnh: Interrnet
Lời người dịch: Trong những ngày qua, Mỹ và Nga đã tiến hành đàm phán và Mỹ đang dành mọi ưu thế cho Nga và không còn muốn tiếp tục yểm trợ cho Ukraine để tạo được một nền hoà bình công chinh và dài lâu. Cho đến nay, Trump không hề đưa ra cam kết cụ thể nào về việc bảo đảm an ninh cho Ukraine mà chỉ tuyên bố chung là sẽ hướng đến một « nền hòa bình lâu dài và ủng hộ các nỗ lực bảo đảm an ninh cho Ukraina ».
Công luận hy vọng là Nga và Ukraine sẽ ký kết một hoà ước trong thời gian sớm nhất, nhưng điểm đáng ngạc nhiên là Mỹ và Ukraine sẽ thỏa thuận về việc khai thác khoáng sản là ưu tiên hàng đầu. Đây là một trong những đòi hỏi chính của Donald Trump, nếu Ukraine muốn có được sự hậu thuẫn khác tiếp theo của Washington.
Theo nội dung thoả thuận tổng quát này, Washington và Kiev sẽ cùng khai thác tài nguyên khoáng sản tại Ukraine và số tiền thu được sẽ được đưa vào một quỹ mới thành lập do «Ukraina và Mỹ quản lý chung ». Trước đây, Trump đòi hỏi 500 tỷ đô la và cho là Mỹ có quyền sở hữu 100% quỹ đầu tư. Nhưng theo tin mới nhất, điều kiện này đã bị loại bỏ. Thay vào đó, quyền sở hữu sẽ “tỷ lệ thuận” với số tiền đầu tư bởi cả hai bên, cho thấy là Ukraine còn ít nhiều sẽ tiếp tục nhận được sự hỗ trợ của Mỹ.
Nhìn chung trong diễn tiến đàm phán, vì chỉ muốn thực thi chính sách MAGA, Trump đã công khai từ bỏ vai trò lãnh đạo thế giới tự do, việc hợp tác quốc tế và đồng minh và tập trung vào lợi ích ngắn hạn và thuần về vật chất. Do đó, các sinh hoạt chung bên trong nước Mỹ cũng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng: các giá trị hiến định cao cả như tinh thần dân chủ, tự do và trọng pháp đang có nguy cơ bị phá hủy.
Hậu quả trên chính trường quốc tế của chính sách MAGA này là Putin và Tập Cận Bình sẽ không cần phải làm gì hết mà bất chiến tự nhiên thành, Nga và Trung Quốc thắng thế trong mọi lĩnh vực, cho dù tiềm năng phát triển của Mỹ vẫn còn to lớn.
Bài viết của Thomas Wright có giá trị tham khảo toàn diện về các phương sách đàm phán mà Trump có thể thực hiện để mang lại hoà bình cho Ukraine mà không gây tổn hại cho an ninh thế giới và quyền lợi thiết thực của nước Mỹ. Sau đây là bản dịch.
***
Ukraine có đòn bẩy đáng kể trong các cuộc đàm phán sắp tới với Nga – miễn là Mỹ đứng về phía Kyiv và áp dụng một chiến lược đàm phán mà nó tạo ra các tình thế tiến thoái lưỡng nan thực sự cho Moscow. Trong những tuần gần đây, sau một loạt các bình luận của các quan chức trong chính quyền Trump, sự ủng hộ của Mỹ đối với Ukraine đã bị nghi ngờ khi đưa ra những nhượng bộ đơn phương với Moscow và chỉ trích Ukraine. Các cuộc đàm phán song phương giữa Nga và Mỹ tại Riyadh đã làm gia tăng mối lo ngại ở Ukraine và châu Âu. Nhưng những động thái này là một sự lựa chọn, không phải là một điều cần thiết. Một thỏa thuận tốt vẫn nằm trong tầm tay nếu Washington sẵn sàng theo đuổi nó.
Chính quyền Trump nên tham gia các cuộc đàm phán này với một ý thức rõ ràng về lợi ích của Hoa Kỳ, một chẩn đoán chính xác về vấn đề cần giải quyết, một xếp hạng ưu tiên về các kết quả có thể xảy ra và một chiến lược để đạt mục tiêu. Nếu làm được điều đó, Hoa Kỳ có thể đảm bảo cho một Ukraine tự do và độc lập với khả năng tự vệ và ngăn chặn các cuộc tấn công trong tương lai. Nếu Hoa Kỳ không giúp cho Ukraine khai thác được lợi thế mà họ có trước thềm các cuộc đàm phán, Hoa Kỳ sẽ mang đến cho Moscow một sinh lộ, Moscow sẽ không chỉ sử dụng trong nhiệm vụ thống trị Ukraine, mà còn gây tổn hại đến lợi ích của Mỹ trên toàn cầu.
Nga chịu áp lực
Trong năm cuối cùng chính quyền Biden, mà trong đó tôi từng là giám đốc cấp cao về hoạch định chiến lược tại Hội đồng An ninh Quốc gia, đã chuẩn bị cho Ukraine cho các cuộc đàm phán vào năm 2025 bất kể ai thắng cử tại Hoa Kỳ vào năm 2024. Sau cuộc phản công không thành công vào năm 2023, chính quyền đã giúp cho Ukraine tạo ra ba phương thức hành động, mà nó sẽ làm suy yếu khả năng của Moscow trong việc tiến hành cuộc chiến vô thời hạn và do đó gây áp lực cho Moscow để đàm phán một cách nghiêm túc.
Phương hướng thứ nhất là để hỗ trợ cho chiến lược tiêu hao bất đối xứng. Theo Bộ Quốc phòng, số thương vong của Nga là hơn 700.000 người kể từ khi chiến tranh bắt đầu và trung bình là 1.500 người mỗi ngày. Những nỗ lực của Moscow nhằm mở một đường quân mới tiếp viện từ Triều Tiên dường như đã thất bại, bởi vì số thương vong của Triều Tiên quá cao đến độ mà Bình Nhưỡng đã không gửi thêm nhiều quân nữa. Theo đó, nếu Nga muốn tham gia một cuộc chiến lâu dài, Tổng thống Nga Vladimir Putin đang phải đối mặt với viễn cảnh phải ra lệnh động viên vào cuối năm nay, điều mà ông đã cố gắng tránh để bảo vệ người dân Nga bình thường từ thực tế và nỗi đau của chiến trường.
Phương hướng thứ hai là hỗ trợ cho chiến dịch tấn công trong tầm xa của Ukraine, ban đầu là thông qua việc hỗ trợ chương trình trong nước với máy bay không người lái và sau đó là cung cấp loại ATACM tầm xa.
Và phương cách thứ ba là tăng cường các biện pháp trừng phạt đối với Nga, bao gồm 50 ngân hàng và lĩnh vực năng lượng của nước này, nhằm làm phức tạp về khả năng tài trợ cho một cuộc chiến trong lâu dài của Moscow; một tác động là lạm phát của Nga tăng vọt, vượt quá 9,5%, với lãi suất trên 21%, vào cuối năm 2024.
Mỹ cũng đã gửi đủ đạn pháo, tên lửa, phòng không và chiến xa để tạo cho Ukraine vào vị thế chiến đấu trong năm 2025. Một khoản vay đồng minh trị giá 50 tỷ đô la, tận dụng các tài sản thuộc chủ quyền Nga bị đóng băng, đã mang lại cho Ukraine một sinh lộ tài chính. Kết quả là Nga bị mắc kẹt. Moscow vẫn tìm cách thống trị Ukraine, nhưng họ chỉ giành được một phần lãnh thổ ở miền đông Ukraine với rất ít triển vọng đạt được lợi ích sâu rộng. Nga đã thất bại trong việc gây ra cho Ukraine sụp đổ bằng cách tấn công về năng lượng trong mùa đông. Nga vẫn chưa giành lại được tất cả lãnh thổ Nga bị Ukraine chiếm giữ ở Kursk, hơn sáu tháng sau cuộc xâm lược của Ukraine. Và tất cả những điều này đã trở nên phức tạp hơn bởi sự sụp đổ của Bashar al-Assad ở Syria, đồng minh của Nga, và có khả năng chấm dứt sự hiện diện quân sự của họ ở đó.
Tại sao Ukraine lại quan trọng
Giới quan sát và hoạch định chính sách, kể cả người trong chính quyền Trump, tin rằng kết quả về cuộc chiến Ukraine không quan trọng đối với Mỹ và nền an ninh châu Âu đã làm phân tán thách thức chủ yếu về chiến lược của Mỹ trong việc chống Trung Quốc. Tuy nhiên, ngay cả khi nhìn lợi ích quốc gia của Mỹ thông qua lăng kính „Nước Mỹ trên hết“ và thấy ít giá trị trong việc duy trì trật tự dựa trên luật lệ hoặc củng cố khối NATO, Mỹ có ít nhất bốn lợi ích quan trọng trong việc ngăn chặn Nga giành chiến thắng ở Ukraine và đảm bảo một Ukraine tự do và có chủ quyền.
Thứ nhất, kể từ khi chiến tranh bắt đầu, Nga đã tăng cường hợp tác đáng kể với Trung Quốc, Triều Tiên và Iran. Nga đã nhận được sự hỗ trợ quan trọng từ mỗi nước, bao gồm máy công cụ, máy điện tử loại nhỏ và quan hệ đối tác đồng sản xuất để giúp tái thiết quân đội Nga từ Trung Quốc; tên lửa và máy bay không người lái từ Iran; và pháo binh và binh lính từ Bắc Triều Tiên. Đổi lại, Điện Kremlin đã cung cấp hỗ trợ quân sự và công nghệ chưa từng có cho mỗi nước, vượt xa những gì họ đã cứu xét trước đây. Sự hợp tác này đang kéo dài và đặt ra một mối đe dọa thực sự đối với lợi ích của Hoa Kỳ. Nếu Nga giành chiến thắng ở Ukraine, đó cũng sẽ là một chiến thắng cho mỗi đối tác trong số ba đối tác này, nếu không có họ, thì Moscow đã thua. Sự so sánh giữa các giới cạnh tranh và đối thủ của Mỹ sẽ trở nên sâu sắc hơn, khi các đối tác của Nga nhận được phần thưởng cho riêng họ. Không có triển vọng về một hòa ước gây ra sự chia rẽ giữa Nga và Trung Quốc, mối quan hệ giữa các nhà lãnh đạo của họ quá mạnh mẽ. Đặc biệt là Trung Quốc sẽ được khuyến khích bởi việc chiến thắng của Nga, và có thể rút ra kết luận về việc Mỹ sẵn sàng gắn bó với một đối tác dù khó khăn.
Thứ hai, sự tồn tại của một Ukraine tự do và độc lập sẽ tốt đẹp cho Hoa Kỳ. Quân đội Ukraine sẽ nổi lên sau cuộc chiến như là quân đội lớn thứ ba của châu Âu, sau Nga và Thổ Nhĩ Kỳ. Quân đội này đã đi tiên phong trong những phát triển công nghệ tiên tiến, đặc biệt là về binh pháp bằng máy bay không người lái và ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào việc chiến đấu. Họ sẽ chia sẻ công nghệ này với Mỹ và giúp cho châu Âu tái thiết cơ sở công nghiệp quốc phòng. Mỹ đã học được rất nhiều về tương lai của binh pháp từ Ukraine. Ukraine có thể là một đồng minh mạnh mẽ và đáng tin cậy của Mỹ ở các khu vực khác trên thế giới, bao gồm cả Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, nơi họ có thể tư vấn và củng cố các đồng minh của Mỹ.
Thứ ba, chiến thắng của Nga ở Ukraine sẽ làm tăng đáng kể mối đe dọa đối với một số quốc gia châu Âu mà họ kiên quyết thân Mỹ và chi một tỷ lệ lớn GDP cho quốc phòng. Các nước này gồm có Lithuania, quốc gia đã cam kết chi hơn 5% GDP cho quốc phòng trong hai năm tới; Ba Lan, đang trên đà đạt 4,7%; Latvia, ở mức 3,45%; và Estonia, ở mức 3,2%. Các nước Tây Âu sẽ không có đủ khả năng để ngăn chặn sự xâm lược của Nga trong nhiều năm, ngay cả khi họ tăng chi tiêu quốc phòng ngay lập tức, và họ cũng có vẻ là thiếu ý chí. Hoa Kỳ không nên từ bỏ cam kết liên minh với các quốc gia có chủ quyền đang làm mọi thứ mà Washington yêu cầu vì những nước khác ở Tây Âu không làm nhiều hơn.
Cuối cùng, và có lẽ quan trọng nhất, Hoa Kỳ quan tâm đến một châu Âu ổn định và hòa bình. Châu Âu là nguồn đầu tư nước ngoài lớn nhất của Hoa Kỳ và thị trường xuất khẩu lớn nhất, và là một đồng minh quan trọng liên kết rộng rãi với Hoa Kỳ về các vấn đề trọng tâm trong chính trị thế giới. Nếu cuộc đàm phán đi tới chổ sai lầm và dẫn đến chiến thắng của Nga, nó sẽ tạo ra một hố đen địa chính trị ở châu Âu – một lỗ đen sẽ không bị tách biệt một cách gọn gàng với các nơi khác của thế giới. Điều này có thể bao gồm gieo hạt giống cho các cuộc xung đột trong tương lai mà nó có thể lan ra ngoài Ukraine, làm suy yếu các quốc gia thân Mỹ ở châu Âu và cung cấp cho Nga cơ hội triển khai sức mạnh trên toàn cầu theo cách bất lợi cho lợi ích của Mỹ, bao gồm cả ở Trung Đông, châu Phi và Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.
Lằn ranh đỏ
Vấn đề chính phải được giải quyết trong các cuộc đàm phán là Nga muốn có một Ukraine trung lập và suy yếu, trong khi Ukraine muốn có đủ khả năng an ninh và đảm bảo để có thể ngăn chặn và phòng thủ trước bất kỳ cuộc tấn công nào trong tương lai.
Trong một bài phát biểu trước Bộ Ngoại giao của mình vào tháng 6/2024, Putin đã nêu rõ lập trường kiên quyết rằng „Ukraine nên chấp nhận tình trạng trung lập, không liên kết, không có vũ khí hạt nhân, phi quân sự hóa và phi phát xít hóa“ và yêu cầu Ukraine nhượng lại toàn bộ các tỉnh Donetsk, Luhansk, Kherson và Zaporizhzhia. Trong một số cuộc phỏng vấn kể từ đó, Putin đã khẳng định quan điểm đó và mô tả Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky là một nhà lãnh đạo bất hợp pháp của Ukraine, không có thẩm quyền ký hiệp ước chấm dứt chiến tranh. Putin cũng yêu cầu các giới hạn nghiêm ngặt về quy mô và phạm vi quân đội Ukraine, bao gồm việc cấm vũ khí „tấn công“, quyền phủ quyết hiệu quả của Nga đối với bất kỳ đảm bảo an ninh quốc tế nào được cung cấp cho Ukraine và đảm bảo an ninh của phương Tây cho Nga.
Một kết quả như vậy sẽ (và nên) hoàn toàn không thể chấp nhận được đối với Ukraine và các đối tác của Ukraine. Không giới lãnh đạo Ukraine nào có thể chấp nhận sự thay đổi chế độ và những hạn chế tối đa đối với khả năng tự vệ. Kyiv cần một số thỏa thuận có thể ngăn cản Nga tiếp tục chiến tranh vào thời điểm họ lựa chọn. Quan điểm chính thức của chính phủ Ukraine là họ muốn nhận lại tất cả lãnh thổ thuộc về chủ quyền của Ukraine, bao gồm cả Crimea, cũng như tư cách thành viên của khối NATO, để Nga không thể tái tấn công nước này mà không gây ra một cuộc chiến tranh rộng lớn hơn. Tuy nhiên, có những dấu hiệu cho thấy Ukraine sẽ sẵn sàng chấp nhận đóng băng đường lãnh thổ nếu nó không được công nhận hợp pháp đối với những lợi ích của Nga và nếu các đồng minh ủng hộ quyền giành lại lãnh thổ của Ukraine bằng các biện pháp phi quân sự. Quan trọng nhất đối với người Ukraine, nó sẽ được bù đắp bằng những đảm bảo chắc chắn về an ninh cho phần còn lại của đất nước và với một cam kết về việc hội nhập chính trị và kinh tế vào phương Tây.
Theo đó, nhiệm vụ của Mỹ và các đồng minh nên rõ ràng: làm việc với Kyiv về một kết quả cung cấp cho một Ukraine tự do và độc lập với khả năng tự vệ và ngăn chặn một cuộc tấn công trong tương lai, và sau đó thuyết phục Putin chấp nhận nó.
Hãy cho tôi biết việc này kết thúc như thế nào
Các bên khác nhau trong các cuộc đàm phán đã đưa ra bốn tình trạng kết thúc riêng biệt, mỗi tình trạng có logic và hàm ý riêng, không phải tất cả đều được hiểu một cách đúng đắn. Đầu tiên là về tư cách thành viên của Ukraine trong khối NATO, điều này sẽ mang lại cho Kyiv một sự đảm bảo an ninh theo Điều 5. Mặc dù ngôn ngữ cụ thể có phần mơ hồ, Điều 5 thường được Hoa Kỳ (và các thành viên khác trong khối NATO) giải thích là một cam kết sắt đá để can thiệp trực tiếp khi nhân danh cho một đồng minh. Với lời cam kết như vậy, người Ukraine tin rằng Nga sẽ ít có khả năng tái tấn công, vì khả năng làm như vậy sẽ dẫn đến chiến tranh với Mỹ.
Hai biến thể của tư cách thành viên có thể áp dụng trong trường hợp này. Theo mô hình Tây Đức, Kyiv sẽ gia nhập khối NATO với sự hiểu biết rằng Điều 5 chỉ áp dụng cho lãnh thổ dưới sự kiểm soát của họ và cam kết không sử dụng vũ lực để tái chiếm các vùng lãnh thổ do Nga chiếm đóng. Theo mô hình Na Uy (dựa trên phương cách tư cách thành viên của quốc gia đó khi thành lập NATO, vào năm 1949), họ sẽ đồng ý với các giới hạn tự áp đặt đối với các căn cứ, quân đội, tàu hải quân và thiết bị của nước ngoài sẽ có mặt trong nước – nói cách khác, tạo ra sự khác biệt giữa Ukraine trong NATO và NATO ở Ukraine.
Tình trạng cuối cùng thứ hai được gọi là mô hình Israel, với việc Washington cung cấp đủ hỗ trợ về quân sự và tình báo để cho phép Ukraine ngăn chặn và đánh bại các lực lượng Nga nếu cần thiết mà không cần sự can thiệp trực tiếp của các quốc gia khác. Trong trường hợp của Israel, sự hỗ trợ của Mỹ dựa trên các văn bản ghi nhớ khác nhau nhằm cung cấp cho nước này một lợi thế quân sự đủ chất lượng (một lợi thế quân sự về công nghệ so với các nước láng giềng). Điều này sẽ không áp dụng trong trường hợp của Ukraine, nhưng Mỹ có thể nhằm mục đích cung cấp cho nước này một khả năng phòng thủ và răn đe đáng tin cậy, như Thỏa thuận An ninh Song phương Mỹ-Ukraine năm 2024 đã nêu ra. Đây sẽ không chỉ là những gì đôi khi được gọi là „chiến lược nhím“, nó ngụ ý một vị trí phòng thủ thuần túy. Nó sẽ cung cấp cho Ukraine khả năng sử dụng tên lửa tầm xa, chẳng hạn như ATACMS và JASSM, để tiến hành tấn công bên trong Nga và các nơi khác trong trường hợp Nga tái xâm lược.
Trong thực tế, mô hình Israel sẽ yêu cầu Mỹ và các đồng minh cam kết giúp cho Ukraine xây dựng một lực lượng bao gồm phòng không theo nhiều lớp, một lực lượng không quân bao gồm một số lượng đáng kể F-16, kho dự trữ 155 đạn dược và tên lửa tầm trung như GMLR, một lực lượng được huấn luyện có khả năng hành quân vũ trang kết hợp, hệ thống phòng thủ mạnh mẽ dọc theo đường kiểm soát, tên lửa tầm xa, và một cơ sở công nghiệp quốc phòng tiên tiến và kiên cường để sản xuất càng nhiều càng tốt trong nước. Mỹ cũng có thể hứa sẽ cung cấp hỗ trợ gián tiếp cho Ukraine nếu nước này bị tái tấn công, theo đường lối hỗ trợ của Mỹ trong ba năm qua ngoại trừ việc không hạn chế việc sử dụng vũ khí của Ukraine đối với vũ khí của Mỹ.
Một tình trạng cuối cùng thứ ba sẽ tập trung vào sự đảm bảo an ninh của châu Âu. Cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Mỹ Donald Trump, Mike Waltz, gần đây nói với đài NBC rằng, vấn đề đảm bảo an ninh „sẽ trực tiếp thuộc về người châu Âu“, đặt ra vấn đề liệu các nước châu Âu có thể gửi quân đến Ukraine sau chiến tranh hay không. Tuy nhiên, không rõ mục đích của việc triển khai như vậy là gì. Liệu quân đội có đóng vai trò như một lực lượng để ngăn chặn một cuộc xâm lược của Nga trong tương lai không? Trong trường hợp đó, các quốc gia châu Âu sẽ lâm chiến với Nga. Họ có ở đó để huấn luyện lực lượng Ukraine và giúp đỡ trong việc phục hồi, nhưng không phải là một lực lượng răn đe? Trong trường hợp đó, họ sẽ phải rời đi ngay khi một cuộc xâm lược mới có vẻ như có thể xảy ra. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Pete Hegseth nói rõ rằng, nếu quân đội châu Âu đến Ukraine, họ sẽ hoạt động mà không có sự đảm bảo của Mỹ. Một số người châu Âu lo ngại rằng điều này sẽ mang lại cho Putin cơ hội để tạo ra sự chia rẽ giữa Mỹ và châu Âu – nếu ông nhắm mục tiêu vào quân đội châu Âu, các thành viên châu Âu của khối NATO sẽ lâm chiến với Nga nếu không có sự hỗ trợ của Mỹ. Về phần mình, Zelensky đã nhấn mạnh rằng „đảm bảo an ninh mà không có nước Mỹ không phải là đảm bảo an ninh thực sự“.
Tình trạng cuối cùng thứ tư sẽ phụ thuộc vào tính trung lập của Ukraine, một yêu cầu mà Nga có thể sẽ bắt đầu bất kỳ cuộc đàm phán nào, dựa trên các cuộc thảo luận ở Istanbul vào năm 2022. Vấn đề chính sẽ là điều gì sẽ xảy ra nếu tình trạng trung lập bị vi phạm. Ở đây, cần xem xét kỹ các cuộc đàm phán ở Istanbul: Moscow đề xuất rằng Ukraine sẽ không tham gia bất kỳ liên minh nào, quy mô quân đội của họ sẽ bị hạn chế và an ninh sẽ được đảm bảo bởi một nhóm các quốc gia cam kết hỗ trợ Ukraine trong trường hợp xảy ra một cuộc tấn công. Nhưng điều khoản này được cấu trúc để trao cho Nga quyền phủ quyết có hiệu quả – nói cách khác, không có cơ chế thực thi.
Các phương cách khác đối với tính trung lập cũng sẽ không hiệu quả. Trong trường hợp của Phần Lan, sau Thế chiến thứ hai, Liên Xô đã có thể can thiệp vào cả chính sách đối ngoại và đối nội, hoạt động kiểm soát đáng kể trong vài thập niên. Đối với Áo trong thời Chiến tranh Lạnh, tình trạng trung lập phần lớn được tôn trọng, nhưng chủ yếu là vì sự vi phạm của Liên Xô xảy ra trong bối cảnh xâm lược của Tây Âu, mà nó gây ra phản ứng lớn của Hoa Kỳ trong mọi trường hợp. Và Bỉ, vốn được coi như là đóng vai trò một vùng đệm trung lập mà không có sự hỗ trợ từ các cường quốc khác, đã bị xâm lược trong cả Thế chiến I và Thế chiến II.
Thế tiến thoái lưỡng nan của điện Cẩm linh
Khi tiếp cận các tình trạng cuối cùng có thể xảy ra này, chiến lược của Mỹ nên tạo ra một tình thế tiến thoái lưỡng nan cho Nga về loại Ukraine mà họ có thể phải đối mặt. Chính quyền Trump đã có một quan điểm rất khác, nhưng Washington có thể và nên loại trừ dứt khoát việc vô hiệu hóa Ukraine hoặc trung lập chính thức, và thay vào đó đặt ra ba lựa chọn: mô hình của Na Uy về thành viên NATO, mô hình của Israel và đảm bảo an ninh của châu Âu.
Mỗi một sự lựa chọn này đều có những nhược điểm đáng kể đối với Nga. Có một lập luận hợp lý cho rằng mô hình thành viên NATO của Na Uy có thể dễ chịu hơn đối với Moscow so với mô hình Israel hoặc quân đội châu Âu, đặc biệt nếu nó mở ra khả năng thảo luận rộng hơn về một số hạn chế đối với vũ khí tấn công của Ukraine và kiến trúc châu Âu. Đây là những điều thường sẽ bị Ukraine và các đồng minh từ chối, nhưng có thể được liên minh thảo luận và xem xét trong trường hợp Nga chấp nhận Ukraine trở thành thành viên NATO. Hơn nữa, theo mô hình Na Uy, sẽ không có quân đội NATO ở Ukraine và chính phủ của họ sẽ phần nào bị các đồng minh kiềm chế.
Ngược lại, mô hình Israel có nghĩa là một Ukraine được trang bị vũ khí tối đa và không an ninh, sẽ phải tự bảo vệ mình và do đó dự đoán có xu hướng tự vệ và hành động đơn phương dưới hình thức phá hoại, hành động bí mật và ám sát. Việc tăng cường hỗ trợ gián tiếp có nghĩa là nếu Nga tái xâm lược, Mỹ sẽ cung cấp hỗ trợ về quân sự và tình báo cho Ukraine, như họ đã làm trong ba năm qua, nhưng không có hạn chế nào đối với việc sử dụng vũ khí của đồng minh bên trong Nga.
Sự hiện diện của quân đội châu Âu có nghĩa là, ngoài việc tái vũ trang cho Ukraine, Nga sẽ phải đối đầu với các lực lượng các quốc gia thành viên NATO gần biên giới hơn với khả năng giám sát sự di chuyển của quân đội và huấn luyện lực lượng Ukraine trong nước. Điện Kremlin có thể cảm thấy thoải mái khi châu Âu chưa sẵn sàng thực hiện sứ mệnh này, nhưng chắc chắn sẽ lo lắng rằng chính quyền Mỹ trong tương lai sẽ cung cấp cho những quân đội này một sự đảm bảo về an ninh.
Mục tiêu của một cuộc đàm phán là buộc Nga phải đối mặt với những tình huống khó xử mà họ phải đối mặt và thử thách các giới hạn của những gì họ có thể chịu đựng. Nga có thể sẽ từ chối mô hình Na Uy, nhưng Mỹ sau đó có thể chuyển sang mô hình Israel – tốt hơn là việc triển khai quân đội châu Âu mà châu Âu tự họ chưa sẵn sàng thực hiện một cách có hiệu quả. Nói tóm lại, mặc dù Kế hoạch A nên là mô hình Na Uy, mô hình Israel sẽ là phương án dự phòng như Kế hoạch B.
Tất nhiên, Nga có thể từ chối mô hình Israel, cũng như NATO và sự đảm bảo của châu Âu, và gắn bó với các mục tiêu tối đa của mình. Đó là lý do tại sao Mỹ nên tiếp tục hỗ trợ Ukraine và duy trì áp lực lên Nga, đặc biệt là thông qua mức tiêu hao bất đối xứng, điều này sẽ gây khó khăn cho Nga trong việc tiến hành một cuộc chiến lâu dài. Chính quyền Trump sẽ miễn cưỡng yêu cầu Quốc hội hỗ trợ quân sự mới cho Ukraine, mặc dù làm như vậy sẽ gửi một tín hiệu quan trọng đến Moscow. Trong khi đó, các đề xuất cho các chính phủ châu Âu mua vũ khí của Mỹ cho Ukraine sẽ vấp phải sự phản đối của Lầu Năm Góc do lượng hàng tồn kho của Mỹ thấp như thế nào và do nhu cầu từ các khu vực khác. Một cách để khắc phục cả hai vấn đề này là thông qua luật pháp tài trợ cho việc sản xuất đạn dược nói chung, gửi tín hiệu rằng ngành công nghiệp quốc phòng nên tăng cường sản xuất cho Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương và Trung Đông cũng như cho châu Âu. Một số việc sản này này sau đó có thể được Mỹ cung cấp để đổi lấy một thỏa thuận việc tiếp cận các khoáng sản quan trọng hoặc mua cho Ukraine, được tài trợ bởi các chính phủ châu Âu bằng cách sử dụng tài sản đóng băng của Nga.
Về phần mình, Nga có thể sẽ yêu cầu huỷ bỏ các biện pháp trừng phạt và trả lại 300 tỷ đô la tài sản quốc gia bị đóng băng. Những yêu cầu này hầu hết nên bị bác bỏ, với phần lớn các biện pháp trừng phạt vẫn được áp dụng cho đền bao lâu mà Nga vẫn còn chiếm đóng bất hợp pháp lãnh thổ Ukraine. (Các biện pháp trừng phạt có thêm lợi ích là cản trở mối quan hệ kinh tế sâu sắc hơn giữa Nga và Trung Quốc.) Nếu chính quyền Trump kiên quyết dỡ bỏ các biện pháp trừng phạt, ít nhất họ nên giữ nguyên những biện pháp cản trở hiện đại hóa quân sự của Nga, chẳng hạn như về máy điện tử loại nhỏ. Các tài sản thuộc về chủ quyền Nga nên được chuyển giao cho Ukraine thay cho các khoản bồi thường, để được sử dụng để tái thiết và xây dựng lại quân đội của nước này. Điều này không cần phải được người Nga đồng ý. Các quốc gia châu Âu có quyền đơn phương thực hiện động thái này, vì phần lớn tài sản bị đóng băng đều ở đó.
Đủ tốt
Nếu ủng hộ cho Ukraine trong các cuộc đàm phán và sử dụng đòn bẩy sẵn có cho việc này, chính quyền Trump có thể đảm bảo mô hình Israel cho Ukraine – việc xây dựng một lực lượng mạnh mẽ trong tương lai với khả năng tấn công lãnh thổ Nga nếu bị tấn công, được hỗ trợ bởi lời hứa hỗ trợ gián tiếp của Mỹ trong trường hợp xảy ra một cuộc chiến mới. Thỏa thuận này sẽ không hoàn hảo, vì nó khiến Ukraine không có sự đảm bảo an ninh từ bên ngoài. Mặc dù có thể đã có một con đường dẫn đến khối NATO, theo mô hình Na Uy, dưới thời chính quyền Dân chủ, một kết quả như vậy rõ ràng là không thể chấp nhận được đối với Trump. (Nó vẫn có thể được thực hiện bởi một chính quyền khác của Hoa Kỳ trong tương lai.) Mô hình Israel cung cấp một lộ trình khả thi để có một Ukraine tự do và độc lập với khả năng tự vệ và ngăn chặn các cuộc tấn công trong tương lai. Và theo thời gian, nó có thể đóng vai trò như một bước đệm dẫn đến một nền hòa bình bền vững và công chính hơn.
***
Thomas Wright là thành viên cấp cao tại Trung tâm An ninh, Chiến lược và Công nghệ Strobe Talbott tại Viện Brookings. Ông từng là Giám đốc Cấp cao về Kế hoạch Chiến lược tại Hội đồng An ninh Quốc gia trong chính quyền Biden.