Foreign Affairs, số tháng 9/10 năm 2024, phát hành ngày 5 tháng 8 năm 2024
Mark A. Milley & Eric Schmidt
Đỗ Kim Thêm dịch

Sam Green minh hoạ
Trên chiến trường Ukraine, tương lai của chiến tranh đang nhanh chóng trở thành hiện diện. Hàng ngàn máy bay không người lái lấp đầy bầu trời. Những máy bay không người lái này và người điều khiển chúng đang sử dụng hệ thống thông minh nhân tạo để tránh các chướng ngại vật và xác định các mục tiêu còn tiềm ẩn. Các mô hình thông minh nhân tạo cũng đang giúp cho Ukraine dự đoán nơi tấn công. Nhờ những hệ thống này, các binh sĩ Ukraine đã tiêu diệt được xe tăng và máy bay với hiệu quả tàn khốc. Các đơn vị Nga thường xuyên bị theo dõi và đường dây liên lạc của họ dễ bị kẻ thù làm gián đoạn – Ukraine cũng vậy. Cả hai quốc gia đang chạy đua để phát triển các nền công nghệ tiên tiến hơn nữa mà nó có thể chống lại các cuộc tấn công liên tục và vượt qua hàng phòng thủ của đối thủ.
Cuộc chiến ở Ukraine hầu như không phải là cuộc xung đột duy nhất mà trong đó nền công nghệ mới đang làm thay đổi bản chất của binh pháp. Ở Myanmar và Sudan, quân nổi dậy và chính phủ cả hai đều sử dụng các phương tiện không người lái và thuật toán khi chiến đấu. Vào năm 2020, một máy bay tự động không người lái do Thổ Nhĩ Kỳ sản xuất mà quân đội hậu thuẫn cho chính phủ Libya triển khai đã tấn công các chiến binh đang rút lui – có lẽ là cuộc tấn công đầu tiên bằng máy bay không người lái được thực hiện mà không có con người can thiệp. Cùng năm đó, quân đội Azerbaijan đã sử dụng các máy bay không người lái do Thổ Nhĩ Kỳ và Israel sản xuất, cùng với đạn dược lảng vảng (chất nổ được thiết kế để bay lơ lửng trên mục tiêu), để chiếm giữ vùng đất tranh chấp Nagorno -Karabakh. Và tại Gaza, Israel đã triển khai hàng nghìn máy bay không người lái được kết nối với thuật toán thông minh nhân tạo, giúp cho quân đội Israel điều hướng các ngõ ngách trong đô thị trên lãnh thổ.
Ở một ý nghĩ nào đó, không có gì ngạc nhiên về tốc độ phát triển như vậy. Chiến tranh luôn thúc đẩy sự đổi mới. Nhưng những thay đổi ngày nay diễn ra nhanh chóng một cách bất thường và sẽ có tác động to lớn hơn. Các cuộc chiến trong tương lai sẽ không còn xoay quanh việc ai có thể tập trung nhiều người nhất hoặc trang bị máy bay phản lực, tàu chiến và xe tăng tốt nhất. Thay vào đó, chúng sẽ bị chế ngự bởi các hệ thống vũ khí ngày càng tự động và các thuật toán mạnh mẽ.
Thật không may, đây là một tương lai mà Hoa Kỳ vẫn chưa chuẩn bị sẵn sàng. Quân đội của nước này chưa hoàn toàn ứng chiến trong một môi trường mà họ hiếm khi tận hưởng được yếu tố bất ngờ. Máy bay phản lực, tàu chiến và xe tăng của Hoa Kỳ không được trang bị để chống lại sự tấn công dữ dội của máy bay không người lái. Quân đội vẫn chưa sử dụng thông minh nhân tạo. Lầu Năm Góc gần như không có đủ các sáng kiến để nhằm khắc phục những thất bại này – và những nỗ lực hiện tại của họ đang tiến triển quá chậm. Trong khi đó, quân đội Nga đã triển khai nhiều máy bay không người lái do thông minh nhân tạo hỗ trợ ở Ukraine. Và vào tháng 4, Trung Quốc tuyên bố tái cơ cấu quân đội lớn nhất trong gần một thập niên, với trọng tâm mới là xây dựng lực lượng dựa trên công nghệ.
Nếu muốn tiếp tục là cường quốc thống trị trong toàn cầu, Hoa Kỳ sẽ phải nhanh chóng chuyển hướng. Đất nước cần cải cách cơ cấu lực lượng vũ trang. Quân đội Hoa Kỳ cần cải cách chiến thuật và phát triển tinh thần lãnh đạo. Quân đội cần những cách mới để mua thiết bị và cần phải mua các loại mới. Và Quân đội cần huấn luyện binh sĩ tốt hơn cách vận hành máy bay không người lái và sử dụng thông minh nhân tạo.
Giới hoạch định chính sách Mỹ, vốn đã quen với việc điều hành bộ máy quốc phòng hùng mạnh nhất thế giới, có thể không thích ý tưởng về một cuộc cải tổ mang tính hệ thống như vậy. Nhưng người máy và thông minh nhân tạo vẫn có ở đây. Nếu Hoa Kỳ thất bại trong việc dẫn đầu cuộc cách mạng này, những kẻ ác độc được trang bị công nghệ mới sẽ sẵn sàng hơn để cố tấn công Hoa Kỳ.
Khi họ làm vậy, họ có thể thành công. Ngay cả khi Washington chiếm ưu thế, nước này sẽ thấy mình ngày càng bị bao vây bởi các hệ thống quân sự được thiết kế để hỗ trợ các chế độ chuyên quyền và được triển khai mà ít tôn trọng các giá trị tự do. Do đó, Hoa Kỳ phải chuyển đổi lực lượng vũ trang để có thể duy trì lợi thế quân sự mang tính quyết định – và đảm bảo rằng các người máy và thông minh nhân tạo được sử dụng trong một phong cách có đạo đức.
Thay đổi hoặc tàn lụn
Có thể lập luận là bản chất của chiến tranh không thể thay đổi được. Trong hầu hết mọi cuộc xung đột có vũ trang, một bên cố tìm cách áp đặt ý chí chính trị của mình lên đối phương thông qua bạo lực có tổ chức. Các trận chiến diễn ra với tình trạng thông tin không hoàn hảo. Quân đội phải đương đầu với những động lực biến động liên tục, kể cả trong giới chức của họ, giữa họ với chính phủ cũng như giữa họ với người dân bình thường. Quân đội trải qua nỗi sợ hãi, đổ máu và cái chết. Những thực tế này khó có thể thay đổi ngay cả khi có sự du nhập của người máy.
Nhưng đặc điểm của chiến tranh – các quân đội chiến đấu như thế nào, giao tranh diễn ra ở đâu và khi nào, sử dụng loại vũ khí và kỹ thuật lãnh đạo nào – có thể phát triển. Nó có thể thay đổi để đáp ứng với các vấn đề về chính trị, dân số và kinh tế. Tuy nhiên, rất ít quân lực mang lại nhiều thay đổi hơn là sự phát triển công nghệ. Ví dụ, việc phát minh ra yên ngựa và móng ngựa đã giúp tạo ra lực lượng kỵ binh vào thế kỷ thứ 9 trước Công nguyên, nó giúp mở rộng chiến trường ra ngoài những vùng đất bằng phẳng cần thiết cho xe ngựa và sang các loại địa hình mới. Sự ra đời của cây cung dài có thể bắn tên ở khoảng cách rất xa, nó cho phép quân phòng thủ chọc thủng các thiết bị hạng nặng và tiêu diệt các đội quân đang tiến từ xa. Việc phát minh thuốc súng vào thế kỷ thứ 9 sau Công nguyên đã dẫn đến việc sử dụng chất nổ và súng cầm tay; để đáp lại, quân phòng thủ đã xây dựng các công sự vững chắc hơn và chú trọng hơn vào việc sản xuất vũ khí.
Hiệu ứng của công nghệ ngày càng rõ rệt hơn với Cách mạng Công nghiệp mà nó dẫn đến việc tạo ra súng máy, tàu hơi nước và radio. Cuối cùng, nó cũng dẫn tới sự ra đời của các xe cơ giới và bọc thép, máy bay và tên lửa.
Thành quả của quân đội thường phụ thuộc vào mức độ thích ứng và áp dụng những canh tân công nghệ. Ví dụ, trong cuộc Cách mạng Hoa Kỳ, Quân đội Lục địa đã bắn súng hỏa mai vào quân Anh với số lượng lớn và sau đó tiến công bằng lưỡi lê. Chiến thuật này thành công vì lực lượng Lục địa đã có thể vượt qua các khoảng cách giữa các phòng tuyến đối phương trước khi quân Anh nạp đạn lại. Nhưng đến thời Nội chiến, súng hỏa mai đã được thay thế bằng nòng súng trường, nó mất ít thời gian hơn để nạp đạn lại và chính xác hơn. Do đó, quân đội phòng thủ đã có thể tiêu diệt lực lương bộ binh đang tiến lên. Các tướng lĩnh của cả hai bên đã điều chỉnh chiến thuật của họ – ví dụ như bằng cách sử dụng lính bắn tỉa và các công sự phòng thủ như chiến hào. Những quyết định của họ đã mở đường cho binh pháp chiền hào trong Thế chiến thứ nhất.
Sự thích ứng về công nghệ cũng tỏ ra cần thiết đối với Thế chiến thứ hai. Trước cuộc xung đột đó, tất cả các nước tiên tiến đều có thề thâm nhập vào trong các công nghệ mới về xe cơ giới, xe tăng bọc thép, máy bay và đài phát thanh. Nhưng quân đội Đức đi tiên phong trong việc kết hợp các thành phần này lại với nhau. Học thuyết tác chiến mới của họ, thường được gọi là “chiến tranh chớp nhoáng”, liên quan đến các cuộc ném bom làm gián đoạn đường liên lạc và tiếp tế, sau đó là các cuộc tấn công bằng xe bọc thép và bộ binh chọc thủng phòng tuyến của quân Đồng minh rồi vượt xa chúng. Kết quả là quân Đức đã có thể tràn ngập gần như toàn bộ châu Âu trong 18 tháng. Họ đã bị chặn lại ở Stalingrad, nhưng chỉ bởi quân đội Liên Xô sẵn sàng chịu tình trạng thương vong nặng nề.
Để đáp trả, quân Đồng minh phải phát triển các chiến thuật và đội hình tương tự. Họ phải minh họa điều mà một người trong chúng tôi (Schmidt) gọi là “sức mạnh đổi mới”: khả năng phát minh, thích ứng và áp dụng công nghệ mới nhanh hơn đối thủ. Cuối cùng, họ đã thành công trong việc cơ giới hóa lực lượng của mình, phát triển các phương thức liên lạc tốt hơn, sử dụng số lượng lớn hơn về không lực, và trong trường hợp của người Mỹ, là chế tạo và sử dụng những quả bom hạt nhân đầu tiên trên thế giới. Sau đó, họ có thể đánh bại phe Trục ở nhiều chiến trường cùng một lúc.
Nỗ lực của quân Đồng minh thật đáng kinh ngạc. Thế nhưng họ vẫn tiến gần đến thất bại. Nếu Đức quản lý năng lực công nghiệp hiệu quả hơn, đưa ra những lựa chọn chiến lược tốt hơn hoặc đánh bại Mỹ về vũ khí nguyên tử, lợi thế đổi mới ban đầu của Berlin có thể đã tỏ ra mang tính quyết định. Kết quả của Thế chiến thứ hai giờ đây dường như đã được định trước. Nhưng như đã được tường thuật, Công tước Wellington nói về kết quả ở Waterloo hơn một thế kỷ trước đó, đó là một sự việc sắp xảy ra.
Mọi hệ thống vận hành
Giới hoạch định quân sự thường gặp khó khăn trong việc dự đoán những đổi mới nào sẽ định hình các trận chiến trong tương lai. Nhưng ngày nay, các dự báo dễ dàng thực hiện hơn. Các máy bay không người lái có mặt khắp nơi và các người máy ngày càng được sử dụng nhiều hơn. Các cuộc chiến ở Gaza và Ukraine đã cho thấy thông minh nhân tạo đang thay đổi cách mà các quốc gia chiến đấu. Cuộc xung đột lớn tiếp theo có thể sẽ chứng kiến sự tích hợp toàn diện của thông minh nhân tạo trong mọi khía cạnh của việc hoạch định và thực thi về quân sự. Ví dụ, các hệ thống thông minh nhân tạo có thể mô phỏng các phương cách chiến thuật và hành quân khác nhau hàng nghìn lần, rút ngắn đáng kể khoảng thời gian từ chuẩn bị đến thực hiện. Quân đội Trung Quốc đã tạo ra một vị chỉ huy cho thông minh nhân tạo có quyền lực tối cao trong các trò chơi chiến tranh ảo trong quy mô lớn. Mặc dù Bắc Kinh cấm các hệ thống thông minh nhân tạo trong việc đưa ra các lựa chọn trong các tình huống thực tế, nhưng họ có thể rút ra những bài học từ nhiều mô phỏng ảo và cung cấp chúng cho những con người ra quyết định. Và cuối cùng,Trung Quốc có thể trao quyền lựa chọn cho các mô hình thông minh nhân tạo, giống như các quốc gia khác làm. Những binh sĩ có thể nhâm nhi cà phê trong văn phòng, từ xa họ theo dõi chiến trường qua màn hình vì hệ thống thông minh nhân tạo quản lý tất cả các loại cỗ máy chiến tranh bằng người máy. Ukraine đã tìm cách giao nhiều nhiệm vụ nguy hiểm nhất có thể ngoài tiền tuyến cho người máy để đảm bảo nguồn nhân lực khan hiếm.
Cho đến nay, việc tự động hóa đã tập trung vào hải và không lực qua dạng các máy bay không người lái trên biển và trên không. Nhưng việc này sẽ sớm chuyển sang thành binh pháp cho bộ binh. Trong tương lai, giai đoạn đầu tiên của bất kỳ cuộc chiến nào có thể sẽ được chỉ huy bởi các người máy trên mặt đất, mà nó có khả năng làm mọi việc từ trinh sát cho đến tấn công trực tiếp. Nga đã triển khai các xe không người lái trên mặt đất mà nó có thể phóng tên lửa chống xe tăng, lựu đạn và máy bay không người lái. Ukraine đã sử dụng người máy để di tản nạn nhân và xử lý chất nổ. Thế hệ máy móc tiếp theo sẽ được dẫn dắt bởi hệ thống thông minh nhân tạo mà nó sử dụng các cảm biến của người máy để lập bản đồ chiến trường và dự đoán các điểm tấn công. Ngay cả khi cuối cùng binh lính bằng người thật can thiệp, họ sẽ được dẫn dắt bởi máy bay không người lái từ góc từ nhìn thứ nhất mà nó có thể giúp xác định kẻ thù (như đã xảy ra ở Ukraine). Họ sẽ dựa vào máy móc để rà phá các bãi mìn, nhận những loạt đạn đầu tiên của kẻ thù và vạch mặt những kẻ thù ẩn nấp. Nếu cuộc chiến của Nga tại Ukraine mở rộng sang các khu vực khác của châu Âu, làn sóng đầu tiên về các người máy trên mặt đất và máy bay không người lái có thể cho phép cả khối NATO và Nga giám sát một chiến tuyến rộng hơn mà chỉ riêng con người có thể tấn công hoặc phòng thủ.
Việc tự động hóa chiến tranh có thể chứng tỏ sự cần thiết để cứu sống các thường dân. Trong lịch sử, các cuộc chiến diễn ra và giành chiến thắng ở địa hình rộng mở, mà nơi đó có ít người sinh sống. Nhưng khi tiến trình đô thị hóa trong toàn cầu thu hút nhiều người hơn vào các thành phố và các tác nhân phi nhà nước chuyển sang chiến thuật du kích tại đô thị, chiến trường quyết định trong tương lai có thể sẽ là các khu vực đông dân cư. Cuộc chiến như vậy sẽ hao tốn nhiều nhân mạng và tài nguyên hơn. Do đó, nó sẽ đòi hỏi nhiều vũ khí bằng người máy hơn nữa. Quân đội sẽ phải triển khai các người mày loại nhỏ, cơ động (chẳng hạn như chó bằng máy) trên đường phố và tràn ngập bầu trời bằng các máy bay không người lái để kiểm soát các vị trí trong đô thị. Họ sẽ được hướng dẫn bởi các thuật toán mà nó có thể xử lý dữ liệu bằng nhãn quan và đưa ra quyết định trong khoảnh khắc. Israel đã giúp cho người đi tiên phong trong công nghệ như vậy, bằng cách sử dụng đàn máy bay không người lái thực sự đầu tiên ở Gaza vào năm 2021. Những máy bay không người lái riêng lẻ đó đã vượt qua hàng phòng thủ của Hamas và liên lạc thông qua hệ thống vũ khí bằng thông minh nhân tạo để đưa ra quyết định chung về địa điểm nào mà chúng nên tấn công.
Việc sử dụng các vũ khí không người lái là cần thiết vì một lý do khác: chúng rẻ tiền. Máy bay không người lái là loại vũ khí có giá rẻ hơn nhiều so với máy bay phản lực quân sự truyền thống. Ví dụ, máy bay không người lái MQ-9 Reaper có giá chỉ bằng 1/4 giá máy bay chiến đấu F-35. Và MQ-9 là một trong những loại vũ khí đắt tiền nhất; một chiếc máy bay không người lái góc nhìn thứ nhất đơn giản có thể có giá chỉ 500 đô la Mỹ. Một đội gồm 10 chiếc trong số này có thể vô hiệu hóa chiếc xe tăng của Nga trị giá 10 triệu đô la Mỹ ở Ukraine. (Trong vài tháng qua, hơn 2/3 số xe tăng Nga mà Ukraine đã phá hủy bởi những máy bay không người lái như vậy.) Dĩ nhiên, khả năng chi trả dễ dàng cho các vũ khí này có thể cho phép các quốc gia gửi những đàn máy bay không người lái – một số được thiết kế để giám sát, số khác để tấn công – mà không cần lo lắng về sự hao mòn. Sau đó, những đàn này có thể áp đảo các hệ thống phòng không truyền thống mà nó vốn không được thiết kế để bắn hạ hàng trăm vật thể cùng một lúc. Ngay cả khi hệ thống phòng thủ chiếm ưu thế, chi phí phòng thủ trước bầy đàn sẽ vượt xa chi phí tấn công của kẻ thù. Cuộc tấn công hàng loạt bằng máy bay không người lái và không kích bằng tên lửa của Iran nhắm vào Israel vào tháng 4 tốn nhiều nhất là 100 triệu đô la, nhưng các nỗ lực đánh chặn của Mỹ và Israel tốn hơn 2 tỷ đô la.
Tất nhiên, khả năng chi trả dễ dàng cho những vũ khí này sẽ khiến cho việc tấn công trở nên dễ dàng hơn – từ đó các tác nhân phi nhà nước được tăng sức mạnh và tiết kiệm. Vào năm 2016, những kẻ khủng bố thuộc Nhà nước Hồi giáo (ISIS) đã sử dụng máy bay không người lái rẻ tiền để chống lại những bước tiến do Mỹ hỗ trợ tại thành phố Raqqa của Syria và thành phố Mosul của Iraq, thả những loại đạn cỡ lựu đạn từ trên trời xuống và khiến Lực lượng Dân chủ Syria khó có thể tấn công để lập ra các vị trí chống bắn tỉa. Ngày nay, quân nổi dậy được Iran hậu thuẫn đang sử dụng máy bay không người lái để tấn công các căn cứ không quân của Mỹ ở Iraq. Và người Houthis, nhóm quân sự kiểm soát phần lớn Yemen, đang gửi máy bay không người lái để tấn công các tàu ở Hồng Hải. Các cuộc tấn công của họ đã làm tăng gấp ba chi phí vận chuyển từ châu Á đến châu Âu. Các nhóm khác có thể sớm tham gia hành động. Ví dụ, Hezbollah và al Qaeda ở Trung Đông có thể tham gia trong nhiều hơn trong các cuộc tấn công khu vực, cũng như Boko Haram ở Nigeria và al Shabab ở những nơi khác ở Châu Phi.
Máy bay không người lái cũng đang giúp cho các nhóm ngoài Trung Đông và Châu Phi. Một liên minh rời rạc của nhóm ủng hộ dân chủ và sắc tộc ở Myanmar đang tái sử dụng máy bay không người lái từ mục tiêu thương mại để chống lại không lực của chính quyền quân sự mà họ từng khiếp sợ. Hiện nay, nhóm này kiểm soát hơn một nửa lãnh thổ đất nước. Ukraine cũng đã sử dụng máy bay không người lái tương tự và đạt hiệu quả cao, đặc biệt là trong năm đầu tiên của cuộc chiến.
Trong trường hợp Trung Quốc tấn công bằng cách đổ bộ, máy bay không người lái cũng có thể giúp cho Đài Loan. Mặc dù Bắc Kinh khó có thể tiến hành một cuộc tấn công toàn diện vào hòn đảo này trong vài năm tới, nhưng Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã ra lệnh cho quân đội tạo khả năng để xâm chiếm Đài Loan vào năm 2027. Để ngăn chặn một cuộc tấn công như vậy, Đài Loan và các đồng minh sẽ phải tấn công một số lượng lớn tàu tấn công của kẻ thù xâm lược trong một khoảng thời gian rất ngắn. Các hệ thống không người lái – trên đất liền, trên biển và trên không – có thể là cách duy nhất để thực hiện điều đó một cách hiệu quả.
Do đó, các đồng minh của Đài Loan sẽ phải điều chỉnh vũ khí được sử dụng ở Ukraine cho phù hợp với một loại hình mới của chiến trường. Không giống như người Ukraine, họ là những người chủ yếu chiến đấu trên bộ và trên không, người Đài Loan sẽ phụ thuộc vào máy bay không người lái dưới nước và thủy lôi tự động có thể di chuyển nhanh chóng trong trận chiến. Và máy bay không người lái của họ sẽ phải có khả năng bay lâu hơn trên những vùng biển rộng lớn hơn. Các chính phủ phương Tây đang nỗ lực phát triển những máy bay không người lái như vậy và ngay khi những mẫu mới này sẵn sàng, Đài Loan và các đồng minh của họ phải sản xuất chúng với số lượng lớn.
Khuấy động lên
Không có quốc gia nào chuẩn bị đầy đủ cho các cuộc chiến trong tương lai. Chưa có quốc gia nào bắt đầu sản xuất phần cứng cần thiết cho vũ khí bằng người máy trên quy mô lớn, cũng như chưa có quốc gia nào tạo ra phần mềm cần thiết để cung cấp hỏa lực đầy đủ cho vũ khí tự động. Nhưng một số quốc gia còn tiến xa hơn những quốc gia khác. Và thật không may, về nhiều mặt, đối thủ của Hoa Kỳ đang dẫn đầu. Sau khi có được kinh nghiệm ở Ukraine, Nga đã gia tăng đáng kể việc sản xuất máy bay không người lái và hiện nay sử dụng các phương tiện không người lái để tạo hiệu quả lớn trên chiến trường. Trung Quốc chế ngự thị trường máy bay không người lái thương mại trong toàn cầu: doanh nghiêp DJI của Trung Quốc kiểm soát khoảng 70% sản lượng máy bay không người lái thương mại toàn cầu. Và do cơ cấu độc tài của Trung Quốc, quân đội Trung Quốc đã tỏ ra đặc biệt khéo léo trong việc thúc đẩy những thay đổi và áp dụng các khái niệm mới. Một là, với việc đặt tên là “binh pháp chính xác cho nhiều khu vực”, điều kiện này đòi hỏi Quân đội Giải phóng Nhân dân phải sử dụng hệ thống thông minh, trinh sát tiên tiến và các công nghệ mới nổi khác để phối hợp với hỏa lực.
Khi nói đến thông minh nhân tạo, Hoa Kỳ vẫn có những hệ thống chất lượng cao nhất và chi xuất nhiều nhất cho chúng. Tuy nhiên, Trung Quốc và Nga đang nhanh chóng giành được chỗ đứng. Washington có đủ nguồn lực để tiếp tục chi tiêu nhiều hơn, nhưng ngay cả khi duy trì vị trí dẫn đầu, họ vẫn có thể gặp khó khăn trong việc vượt qua những trở ngại quan liêu và công nghiệp trong việc triển khai các phát minh trên chiến trường. Do đó, quân đội Hoa Kỳ có nguy cơ phải tham chiến mà trong đó việc huấn luyện thượng hạng và vũ khí quy ước vượt trội sẽ trở nên kém hiệu quả hơn. Ví dụ, quân đội Hoa Kỳ chưa được chuẩn bị đầy đủ để hành quân trên chiến trường, nơi mà mọi động thái của họ đều có thể bị phát hiện và có thể nhanh chóng bị nhắm làm mục tiêu bởi các máy bay không người lái bay lượn trên đầu. Sự thiếu kinh nghiệm này sẽ đặc biệt nguy hiểm trên các chiến trường rộng mở như chiền trường Ukraine, cũng như các nước Đông Âu khác hoặc ở vùng Bắc Cực rộng lớn. Quân đội Hoa Kỳ cũng sẽ đặc biệt dễ bị tổn thương ở các chiến trường đô thị, nơi mà kẻ thù có thể dễ dàng cắt đứt đường dây liên lạc của Hoa Kỳ và nhiều vũ khí của Mỹ ít hữu dụng hơn.
Ngay cả trên biển, Hoa Kỳ cũng sẽ dễ bị tổn thương trước các thăng tiến của đối thủ. Tên lửa siêu thanh của Trung Quốc có thể đánh chìm tàu sân bay Mỹ trước khi chúng rời khỏi Trân Châu Cảng. Bắc Kinh đã triển khai các hệ thống giám sát và tác chiến điện tử được hỗ trợ bởi thông minh nhân tạo mà nó có thể mang lại lợi thế phòng thủ đồi với Hoa Kỳ trên toàn bộ khu vực Ấn Độ – Thái Bình Dương. Trên không, chiếc F-35 mạnh mẽ nhưng đắt tiền có thể gặp khó khăn trước đàn máy bay không người lái giá rẻ. Xe tăng Abrams và Bradley bọc thép dày đặc trên mặt đất cũng giống như vậy. Với những thực tế đáng tiếc này, giới hoạch định quân sự Hoa Kỳ đã hợp lý khi kết luận rằng kỷ nguyên của các chiến dịch “gây sốc và kinh hoàng” – trong đó Washington có thể tiêu diệt đối thủ bằng hỏa lực áp đảo – đã kết thúc.
Để tránh trở nên lỗi thời, quân đội Mỹ cần thực hiện những cải cách quan trọng. Mỹ có thể bắt đầukhuấy động tiến trình này bằng việc mua phần mềm và vũ khí. Tiến trình mua hàng hiện tại của Mỹ quá quan liêu, không thích rủi ro và chậm thích ứng với các mối đe dọa đang phát triển nhanh chóng trong tương lai. Ví dụ, Mỹ dựa vào chu kỳ mua sắm trong 10 năm, có thể khoá chặt trong các hệ thống đặc biệt và hợp đồng lâu dài sau khi nền công nghệ cơ bản đã phát triển. Thay vào đó, Mỹ nên thực hiện các giao dịch ngắn hơn bất cứ khi nào có thể.
Tương tự, Hoa Kỳ phải tìm cách mua hàng từ nhiều doanh nghiêp hơn mức mà họ thường sử dụng. Vào năm 2022, Lockheed Martin, RTX, General Dynamics, Boeing và Northrop Grumman đã nhận được hơn 30% tổng số tiền hợp đồng của Bộ Quốc phòng. Ngược lại, các nhà sản xuất vũ khí mới hầu như không nhận được bất kỳ khoản tiền nào. Năm ngoái, chưa đến 1% tổng số hợp đồng của Bộ Quốc phòng thuộc về các doanh nghiệp được hỗ trợ bởi quỹ đầu tư mạo hiểm, nhìn chung, những doanh nghiệp này có nhiều đổi mới hơn so với các đối tác lớn hơn. Những tỷ lệ phần trăm đó sẽ bình đẳng hơn nhiều. Thế hệ máy bay không người lái tiếp theo nhỏ, giá rẻ khó có thể được thiết kế bởi các doanh nghiệp quốc phòng truyền thống, mà các doanh nghiệp này vốn được khuyến khích sản xuất các thiết bị đắt tiền nhưng lạ mắt. Nhiều khả năng chúng sẽ được tạo ra giống như ở Ukraine: thông qua sáng kiến của chính phủ hỗ trợ hàng chục doanh nghiệp khởi nghiệp nhỏ. (Một người trong nhóm chúng tôi, Schmidt, là nhà đầu tư lâu năm trong các doanh nghiệp công nghệ quốc phòng.)
Tuy nhiên, để thích ứng với tương lai, Mỹ sẽ cần phải làm nhiều việc hơn chỉ đơn giản là cải cách cách việc mua vũ khí. Mỹ cũng phải thay đổi cơ cấu tổ chức và hệ thống huấn luyện của quân đội. Mỹ sẽ làm cho chuỗi chỉ huy phức tạp, có thứ bậc trở nên linh hoạt hơn và trao quyền tự chủ lớn hơn cho các đơn vị nhỏ, có năng động cao. Các đơn vị này cần có những người lãnh đạo được đào tạo và trao quyền để đưa ra những quyết định chiến đấu quan trọng. Những đơn vị như vậy sẽ nhanh nhẹn hơn – một lợi thế quan trọng nhờ tốc độ nhanh chóng của cuộc chiến do thông minh nhân tạo hỗ trợ. Họ cũng ít có khả năng bị tê liệt nếu đối thủ làm gián đoạn đường dây liên lạc của họ tới bộ tổng hành dinh. Các đơn vị này phải được kết nối với các nền tảng mới, chẳng hạn như máy bay không người lái, để chúng có thể hoạt động hiệu quả nhất có thể. (Các hệ thống tự động cũng có thể giúp cải thiện việc huấn luyện.) Các lực lượng đặc biệt của Hoa Kỳ là hình mẫu khả thi cho cách các đơn vị này có thể hoạt động.
Các rủi ro và phần thưởng
Kỹ nguyên mới này của binh pháp sẽ có những lợi thế về chuẩn mực. Những tiến bộ trong nền công nghệ chính xác có thể giúp giảm bớt các vụ không kích và pháo kích bừa bãi, đồng thời máy bay không người lái có thể cứu mạng sống các binh lính trong khi đang chiến đấu. Nhưng tỷ lệ của việc thương vong dân sự ở Gaza và Ukraine làm dấy lên nghi ngờ về quan điểm cho rằng nhìn chung các cuộc xung đột đang trở nên ít chết chóc hơn – đặc biệt khi các xung đột chuyển dịch vào trong các khu đô thị. Và sự trỗi dậy của binh pháp bằng thông minh nhân tạo đã mở ra một hộp Pandora về các vấn đề đạo đức và pháp lý. Ví dụ, một quốc gia chuyên quyền có thể dễ dàng sử dụng các hệ thống thông minh nhân tạo được thiết kế để thu thập thông tin tình báo trong chiến đấu và triển khai chúng để chống lại những người bất đồng chính kiến hoặc đối thủ chính trị. Ví dụ, doanh nghiệp DJI của Trung Quốc có liên quan đến hành vi vi phạm nhân quyền đối với người Duy Ngô Nhĩ ở Trung Quốc, và nhóm bán quân sự Wagner liên kết với Nga đã giúp quân đội Mali tiến hành các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái nhằm vào dân thường. Những lo ngại này không chỉ giới hạn ở các đối thủ của Mỹ. Quân đội Israel đã sử dụng một chương trình thông minh nhân tạo có tên Lavender để xác định các chiến binh còn tiềm ẩn và nhắm mục tiêu ở hậu phương bằng các cuộc không kích ở khu Gaza đông dân. Chương trình có rất ít sự giám sát của con người. Theo Tạp chí +972, mọi người chỉ dành 20 giây để thực hiện mỗi cuộc tấn công.
Trong trường hợp xấu nhất, binh pháp thông minh nhân tạo thậm chí có thể gây nguy hiểm cho nhân loại. Các trò chơi chiến tranh được thực hiện bằng mô hình thông minh nhân tạo của OpenAI, Meta và Anthropic đã phát hiện ra rằng các mô hình thông minh nhân tạo có xu hướng đột ngột leo thang thành chiến tranh gây tác hại theo quy ước, bao gồm cả chiến tranh hạt nhân, so với các trò chơi do con người tiến hành. Không cần nhiều trí tưởng tượng để có thể thấy rằng mọi thứ có thể trở nên sai lầm khủng khiếp như thế nào nếu những hệ thống thông minh nhân tạo này thực sự được sử dụng. Năm 1983, hệ thống phát hiện tên lửa của Liên Xô đã phân loại sai ánh sáng phản chiếu từ các đám mây là một cuộc tấn công hạt nhân sắp tới. May mắn thay, quân đội Liên Xô có một người lính chuyên trách việc cảnh báo, người này xác định việc cảnh báo là sai lầm. Nhưng trong thời đại thông minh nhân tạo, có thể không có việc con người kiểm tra hai lần về hoạt động của hệ thống. May mắn thay, Trung Quốc và Mỹ dường như đã nhận ra rằng họ phải hợp tác về thông minh nhân tạo. Sau hội nghị thượng đỉnh vào tháng 11 năm 2023, Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden và ông Tập Cận Bình đã cam kết cùng thảo luận về các vấn đề an toàn và rủi ro của thông minh nhân tạo, và vòng đàm phán đầu tiên đã diễn ra tại Geneva vào tháng 5. Cuộc đối thoại này là cần thiết. Ngay cả khi sự hợp tác giữa hai siêu cường bắt đầu ở quy mô nhỏ, có lẽ không đạt được gì hơn ngoài việc thiết lập ngôn ngữ chung liên quan đến việc sử dụng thông minh nhân tạo trong chiến tranh, nó có thể đặt nền tảng cho một điều gì đó lớn lao hơn. Trong Chiến tranh Lạnh – thời kỳ cạnh tranh giữa các cường quốc khốc liệt hơn đáng kể so với cạnh tranh Mỹ – Trung hiện nay – Liên Xô và Mỹ đã có thể xây dựng một chế độ mạnh mẽ về các biện pháp an toàn cho hạt nhân. Và giống như Liên Xô, các quan chức Trung Quốc có động cơ để hợp tác với Washington nhằm kiểm soát các vũ khí mới. Hoa Kỳ và Trung Quốc có tầm nhìn toàn cầu khác nhau, nhưng cả hai đều không muốn những kẻ khủng bố sở hữu những người máy nguy hiểm. Họ cũng có thể muốn ngăn chặn các quốc gia khác mua lại công nghệ như vậy. Các cường quốc sở hữu công nghệ quân sự nguy hiểm hầu như luôn có lợi ích đan xen trong việc giữ nó cho riêng mình.
Ngay cả khi Trung Quốc không hợp tác, Mỹ cũng nên đảm bảo rằng thông minh nhân tạo về quân sự của mình phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ. Mỹ cần đảm bảo rằng các hệ thống thông minh nhân tạo có thể phân biệt giữa các mục tiêu quân sự và dân sự. Mỹ phải giữ hệ thống trong sự chỉ huy của con người. Cần liên tục kiểm tra và đánh giá các hệ thống để xác nhận rằng chúng hoạt động như dự định trong điều kiện thực tế. Và Mỹ nên gây áp lực lên các nước khác – đồng minh cũng như đối thủ – để áp dụng các thủ tục tương tự. Nếu các quốc gia khác từ chối, Washington và các đối tác nên áp dụng các hạn chế về kinh tế để giới hạn khả năng thâm nhập về thông minh nhân tạo quân sự của họ. Thế hệ vũ khí tự động tiếp theo phải được chế tạo cho phù hợp với các giá trị tự do và sự tôn trọng phổ quát về nhân quyền – và điều đó đòi hỏi tinh thần lãnh đạo táo bạo của Hoa Kỳ.
Chiến tranh thật tồi tệ, tàn bạo và thường kéo dài rất lâu. Thật là ảo tưởng khi tin rằng công nghệ sẽ thay đổi bản chất của con người trong xung đột. Nhưng tính chất của chiến tranh đang thay đổi nhanh chóng và căn bản. Hoa Kỳ cũng phải thay đổi và thích nghi, và các quan chức Mỹ phải làm điều đó nhanh hơn các đối thủ. Washington sẽ không hoàn toàn làm đúng việc này – nhưng họ phải làm ít sai lầm hơn là kẻ thù của mình.
***
Mark A. Milley, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân 2019 – 2023. Ông là Giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Princeton và là thành viên cao cấp nội trú tại Trường Ngoại giao của Đại học Georgetown.
Eric Schmidt, Chủ tịch Dự án Nghiên cứu Cạnh tranh Đặc biệt và là cựu Giám đốc điều hành kiêm Chủ tịch Google. Ông là đồng tác giả với Henry Kissinger và Daniel Huttenlocher cuốn sách The Age of AI: And Our Human Future.