Đỗ Kim Thêm dịch

Lợi ích của Moscow đối với vũ khí và dầu mỏ của Hà Nội tạo ra một hành động tung hứng chiến lược gây khó khăn cho Bắc Kinh.
Nga là một trong những nhà cung cấp vũ khí lớn nhất cho Đông Nam Á, chỉ riêng Việt Nam là khách hàng chính cho vũ khí của Nga. Mặc dù người ta ước lượng rằng trong suốt những năm của thập niên 1980, Moscow đã cung cấp cho Việt Nam trung bình 1 tỷ đô la Mỹ hàng năm trong hỗ trợ quân sự và 1 tỷ đô la Mỹ khác hàng năm trong hỗ trợ kinh tế. Sau sự sụp đổ của Liên Xô, điện Kremlin đã mất ảnh hưởng đáng kể trong nước. Hiện nay, Nga đang tìm cách lấy lại cơ sở bị mất.
Hợp tác quốc phòng dường như là một trụ cột quan trọng trong nỗ lực của Nga nhằm tăng cường mối quan hệ quân sự với Hà Nội và để đảm bảo Moscow có một vị trí trên bàn đàm phán ở Đông Nam Á. Điều này đã được nhấn mạnh bằng các cuộc đàm phán vào tháng 6 giữa Bộ trưởng Quốc phòng Nga Sergei Shoigu và người đồng cấp Việt Nam Phan Văn Giang, và sau đó ngay sau đó khi Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam Lê Huy Vĩnh tiếp đón Anatoly Chuprynov, đại diện Của Cục Hợp tác Quân sự-Kỹ thuật Liên bang Nga, cũng như các cuộc họp khác gần đây giữa các quan chức cấp cao.
Về mặt chính thức, Nga và Việt Nam là đối tác chiến lược, cam kết giúp đỡ lẫn nhau về quốc phòng và an ninh. Không có gì là bí mật khi Việt Nam quan tâm đến việc mua đầu đạn có trang bị hoả tiễn siêu âm thanh tầm trung do liên doanh Nga-Ấn Độ BrahMos Aerospace sản xuất. Vào tháng 11 năm 2020, Phó Đại sứ Nga Roman Babushkin nói rằng, Ấn Độ và Nga đang có kế hoạch xuất khẩu đầu đạn có trang bị hỏa tiễn tên lửa BrahMos sang Philippines và một số quốc gia khác. Vẫn chưa rõ là liệu Việt Nam có nằm trong số các nước đó không.
Nhược điểm của Moscow là khả năng bán hỏa tiễn BrahMos cho Hà Nội có thể làm suy yếu quan hệ của Nga với Trung Quốc, mà Trung Quốc có lịch sử căng thẳng với Việt Nam và các yêu sách lãnh thổ ở Biển Đông. Vì vậy, có thể là Nga có những thiết kế khác để tăng cường hợp tác quân sự với Việt Nam, quay trở lại di sản của thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
Căn cứ hải quân vịnh Cam Ranh trên bờ biển đông nam Việt Nam được Hoa Kỳ thành lập như một tiền đồn quân sự trong thời chiến tranh Việt Nam, sau năm 1979, phần lớn được sử dụng bởi các lực lượng Liên Xô. Năm 1984, Việt Nam và Liên Xô đã ký một thỏa thuận về việc xây dựng cơ sở hạ tầng đồn trú quân sự trong vịnh. Theo thỏa thuận, các cơ sở sẽ được Hải quân Liên Xô vận hành cho đến năm 2004. Nhưng đến năm 2002, hạm đội Nga đã rời Cam Ranh, chuyển giao tất cả các cơ sở cho Việt Nam.
Hiện nay, một số nhà phân tích Nga cho rằng, quyết định từ bỏ căn cứ của điện Kremlin là một sai lầm. Việc quay lại vịnh Cam Ranh sẽ là một thách thức trong môi trường địa chính trị hiện nay. Theo giả thuyết, Hà Nội có thể cho phép Moscow triển khai quân đội của mình đến cơ sở hải quân Cam Ranh, nhưng làm thế nào Trung Quốc sẽ cảm nhận được một động thái như vậy một cách tốt nhất là một vấn đề còn mở rộng. Bắc Kinh, cũng như Washington, có thể quan tâm đến việc sử dụng Vịnh Cam Ranh làm căn cứ hải quân, khiến Việt Nam phải đối mặt với việc cố gắng thu xếp lợi ích cạnh tranh của ba cường quốc.
Tuy nhiên, trong trường hợp tăng cường hợp tác quân sự giữa Nga và Việt Nam, Hà Nội có thể cho phép Moscow sử dụng các cơ sở sửa chữa tàu của Vịnh Cam Ranh. Điều này có nghĩa là các tàu hải quân Nga đôi khi có thể cập cảng Cam Ranh, nhưng trong một cách là không từ đó mà Moscow giành được toàn quyền kiểm soát vị trí quan trọng chiến lược này.
Ngoài các mối quan hệ quốc phòng, Nga cũng đang chứng kiến để thúc đẩy các quan hệ kinh tế với Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực năng lượng.
Hai nước đang có kế hoạch khởi động tuyến đường biển Azov- Hải Phòng vào năm 2024, phát triển các bến cảng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa dân sự. Một dự án như vậy, không giống như bất kỳ thỏa thuận nào về căn cứ hải quân vịnh Cam Ranh, có vẻ thực tế hơn, cho rằng thương mại kinh tế giữa Moscow và Hà Nội đạt 4,05 tỷ USD trong mười tháng đầu năm 2020, bảy phần trăm cao hơn so với năm 2019. Nga được xếp thứ 24 trong số 129 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam tính đến đầu năm 2020 và có kế hoạch tăng cường kinh doanh năng lượng trong nước.
Zarubezhneft, nhà sản xuất dầu khí quốc doanh Nga, được cho là đã đồng ý mua lại cổ phần trong hai dự án thăm dò và phát triển ngoài khơi tại Việt Nam từ doanh nghiệp đồng hương Rosneft, cùng với một đường ống dẫn khí đốt ngoài khơi thông qua Vietsovpetro, liên doanh với PetroVietnam. Người ta ước tính là Vietsovpetro sản xuất 1/3 lượng dầu của Việt Nam.
Gazprom, một đại doanh nghiệp khác về năng lượng thuộc nhà nước của Nga, cũng đang kinh doanh tại quốc gia Đông Nam Á. Doanh nghiệp đã tìm cổ phần trong nhà máy lọc dầu duy nhất của Việt Nam tại Dung Quất, và Zarubezhneft đã đặt mục tiêu xây dựng các trang trại gió ngoài khơi từ Việt Nam. Ngoài ra, năm 2016 Nga và Việt Nam đã ký năm hiệp định dầu khí nhằm mở rộng hợp tác trong thăm dò và sản xuất hydrocarbon.
Nhưng Trung Quốc hiện ra rất lớn. Trong quá khứ, Rosneft đã nhắm mục tiêu khu vực này là một tiềm năng về thị trường dầu thô, nhưng Trung Quốc đã cảnh báo cho doanh nghiệp về các hoạt động của mình trong một khu vực mà Bắc Kinh coi là khu vực thuộc ảnh hưởng của mình. Đó là một lời nhắc nhở rằng trong khi Nga coi Việt Nam là một trong những đối tác thân cận nhất ở Đông Nam Á, Moscow sẽ cẩn thận để không hy sinh các mối quan hệ với Bắc Kinh.