Cách nắm bắt tiềm năng trong năng suất của đại dịch
FOREIGN AFFAIRS July/August 2021
James Manyika và Michael Spence
Đỗ Kim Thêm dịch
Trong những ngày đầu của đại dịch coronavirus, phần lớn trong nền kinh tế toàn cầu đã dừng lại. Tại Hoa Kỳ, sản xuất công nghiệp và thương vụ bán lẻ giảm xuống ở mức thấp trong lịch sử. Trong khu vực sử dụng đồng euro, việc làm bị thu hẹp với tốc độ nhanh nhất. Và trên toàn thế giới, nhiều nền kinh tế đã rơi vào tình trạng suy thoái đột ngột và nghiêm trọng.
Tuy nhiên, đại dịch đã gây cho nền kinh tế toàn cầu còn tê liệt trầm trọng hơn là tạm thời. Nó thúc đẩy các doanh nghiệp trong mọi lĩnh vực phải thực tế suy nghĩ lại một cách triệt để về hoạt động, thường là các kế hoạch tăng tốc cho việc canh tân công nghệ và tổ chức mà vốn dĩ nó đã vận hành. Đại đa số doanh nghiệp đã du nhập các công nghệ mới bằng kỹ thuật số, nó cho phép doanh nghiệp tiếp tục hoạt động, ngay cả khi bị các hạn chế nghiêm trọng do coronavirus. Kết quả là có một sự chuyển đổi kinh tế sâu xa, đẩy nhanh tiềm năng cho việc tăng năng suất, ngay cả trong các lĩnh vực mà từ lâu thay đổi quá chậm. Ví dụ như trong lĩnh vực y tế, trị liệu y tế từ xa từ lâu đã hứa hẹn có hiệu quả mới và tăng giá trị, nhưng không phải đợi đến cuộc khủng hoảng COVID-19, nó mới cất cánh. Trong lĩnh vực bán lẻ, ngoại trừ các doanh nghiệp khổng lồ về thương mại điện tử, các doanh nghiệp đã chậm áp dụng các chiến lược bán hàng bằng kỹ thuật số, họ thực hiện việc này chủ yếu như là một cách bổ sung cho việc bán lẻ. Thương vụ này đã thay đổi nhanh chóng với trận đại dịch.
Thoát ra sau cuộc khủng hoảng trầm trọng về kinh tế kể từ Đệ nhị Thế chiến, một kỷ nguyên mới về gia tăng năng suất và thịnh vượng có thể hình thành, đó là điều có vẻ đáng ngạc nhiên. Liệu việc này có xảy ra không, nó sẽ tuỳ thuộc phần lớn vào các quyết định mà các chính phủ và doanh nghiệp đưa ra khi họ chuẩn bị thoát khỏi trận đại dịch trong những tháng sắp tới.
Trong ngắn hạn và trung hạn, triển vọng tăng năng suất – và thịnh vượng – là đáng khích lệ, khi Hoa Kỳ và các quốc gia khác chi tiêu nhiều cho việc phục hồi kinh tế và các doanh nghiệp gặt hái được lợi ích của việc số hóa. Nhưng trong dài hạn, triển vọng là ít lạc quan hơn, vì các chính phủ không thể chi tiêu vô hạn định và các khoản chi của người tiêu dùng và cho đầu tư có thể không lấp đầy khoảng trống.
Do đó, các chính phủ và doanh nghiệp phải tìm cách tạo ra điều kiện cho tăng trưởng năng suất bền vững và thịnh vượng, đặc biệt bằng cách tạo thuận lợi cho sự lan toả của canh tân công nghệ và tổ chức và thúc đẩy nhu cầu của người tiêu dùng. Thoát ra khỏi một cuộc khủng hoảng toàn cầu rộng lớn có thể dẫn đến một cú sốc mạnh về tăng năng suất – nhưng chỉ khi nào giới hoạch định chính sách và lãnh đạo doanh nghiệp tận dụng tối đa trong thời điểm này.
Nghịch lý về năng xuất
Lịch sử về sự tăng trưởng năng suất có thể được hiểu như là sự nối tiếp của các cuộc cách mạng công nghệ, từ máy động cơ chạy bằng hơi nước cho đến máy vi tính. Mỗi loại mang lại lời hứa hẻn về năng suất gia tăng và tăng trưởng kinh tế, và cuối cùng, mỗi loại đã thành tựu. Nhưng thường có sự trì trệ giữa các biện pháp canh tân và áp dụng, và một sự trì trệ khác giữa áp dụng và ảnh hưởng trong kinh tế.
Trong một bài báo năm 1987 trên The New York Times Book Review, nhà kinh tế học Robert Solow đã tóm tắt những khác biệt rõ ràng này: „Bạn có thể thấy thời đại máy vi tính ở khắp mọi nơi, nhưng năng suất trong các thống kê.“ Công thức của ông được nổi danh là „nghịch lý Solow“.
Nhưng sau đó là cuộc cách mạng về công nghệ thông tin và truyền thông xảy đến từ năm 1995 đến 2005, một thập kỷ mà nghịch lý Solow được giải quyết một cách tạm thời. Việc áp dụng rộng rãi của các công nghệ này song hành với sự tăng tốc đồng thời về năng suất, làm cho Hoa Kỳ tăng trưởng với tốc độ hàng năm là 2,5%, nhanh hơn điểm phần trăm so với tỷ lệ từ năm 1970 đến 1995.
Các doanh nghiệp đã đầu tư ào ạt vào công nghệ thông tin và truyền thông và tổ chức lại các hoạt động và áp dụng trong quản lý. Họ đã làm như vậy, vì muốn đạt được lợi thế cạnh tranh, nhưng cũng vì nhu cầu tiêu dùng tương đối bền bỉ đối với các sản phẩm của họ.
Kết quả là có tình trạng tăng năng suất trong một số lĩnh vực, thúc đẩy cho toàn bộ nền kinh tế Mỹ tăng trưởng. Đặc điểm của thời kỳ này là sự kết hợp bất thường của các bộc phát quy mô trong tăng năng suất trong một vài lĩnh vực quan trọng sử dụng ít công nhân, chẳng hạn như bán lẻ và sĩ, và thậm chí tăng năng suất lớn hơn trong các lĩnh vực nhỏ hơn, chẳng hạn như trong những lĩnh vực sản xuất máy vi tính và sản phẩm điện tử.
Trong cả hai lĩnh vực lớn và nhỏ, đã có một chu kỳ mẩu mực cho tăng trưởng nhân dụng để đáp ứng nhu cầu và thậm chí làm cho tăng trưởng nhanh hơn về giá trị sản lượng trong các lĩnh vực này. Giá trị sản lượng trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế tăng 3,4% mỗi năm từ năm 1995 đến năm 2005, trong khi tổng số giờ làm việc chỉ tăng 0,9% mỗi năm.
Nhưng sự bùng nổ không kéo dài. Từ năm 2005 cho đến 2019, tăng năng suất hàng năm ở Hoa Kỳ đã giảm hơn một nửa, xuống còn 1,0%. Sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, từ năm 2010 cho đến 2019, thậm chí nó còn thấp hơn, ở mức 0,6%. Không giống như tại Hoa Kỳ, các nước châu Âu đã không trải qua mức tăng năng suất nhanh chóng trong giai đoạn 1995-2005, nhưng họ đã trải qua sự suy giảm sau khủng hoảng. Từ năm 2010 cho đến 2019, tăng trưởng năng suất hàng năm đã giảm xuống dưới một phần trăm ở Pháp, Đức và Vương quốc Anh.
Nghịch lý Solow đã trở lại. Sau một thập kỷ tăng năng suất nhanh chóng, cuộc cách mạng công nghệ thông tin đã đạt đến các mức doanh thu đang giảm dần. Nhưng làn sóng công nghệ nối tiếp – số hóa các tiến trình, dữ liệu lớn và phân tích, cloud computing, Internet of Things – tất cả vẫn chưa đủ khả năng để lấp đầy khoảng trống.
Mặc dù có những đột phá ban đầu trong tiến trình nhận dạng hình ảnh và ngôn ngữ tự nhiên, rất có ít doanh nghiệp đã bắt đầu sử dụng các công nghệ trí tuệ nhân tạo và số hóa đang tiến hành một cách chậm chạp. Dựa trên sự đánh giá theo từng ngành chuyên biệt, chúng tôi ước tính rằng vào năm 2015, Hoa Kỳ đã chỉ đạt đên 18% tiềm năng kỹ thuật số và châu Âu chỉ đạt 12%. Hơn nữa, một khoảng cách đã mở ra giữa các doanh nghiệp dẫn đầu về kỹ thuật số và những doanh nghiệp còn tụt hậu trong kỹ thuật số – một khoảng cách mà các nhà nghiên cứu khác tìm thấy rằng có mối tương quan với khoảng cách về năng suất lao động.
Khoảng cách trong việc áp dụng công nghệ đã mở rộng tại thời điểm mà nhu cầu tiêu dùng đối với hàng hóa và dịch vụ yếu, phần lớn là do hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính. Các doanh nghiệp đã thu hẹp quy mô đầu tư và có ít hơn doanh nghiệp mới được thành hình. Vấn đề trầm trọng là khi mức chia sẻ trong thu nhập chảy vào những người có thu nhập cao và chủ sở hữu vốn tăng lên, trong khi mức chia sẻ trong thu nhập cho giới lao động giảm, làm cho suy yếu hơn nhu cầu.
Khắp Hoa Kỳ và châu Âu, việc tăng năng suất trong phần lớn các lĩnh vực đều sụt giảm. Chỉ có bốn phần trăm của tất cả các lĩnh vực được ghi nhận là năng suất tăng vọt trong năm 2014, so với trung bình 18% của các lĩnh vực đạt được sự gia tăng đáng kể về năng suất trong hai thập kỷ trước. Tăng trưởng trong tổng giá trị gia tăng – thước đo mức đóng góp của một doanh nghiệp hoặc một ngành cho GDP – đã giảm từ 3,4% hàng năm từ năm 1995 đến 2005 xuống còn 1,8% từ năm 2005 đến 2019. Sự tăng trưởng trong giờ làm việc gần như không thay đổi, ở mức 0,7 phần trăm, trong cả hai giai đoạn.
Hai giai đoạn rất khác nhau trong hoạt động kinh tế ở Hoa Kỳ tiết lộ nhiều điều cơ bản của việc tăng năng suất. Đầu tiên và quan trọng nhất, nó bắt nguồn từ việc áp dụng rộng rãi các đổi mới công nghệ, đặc biệt là các công nghệ đa năng như điện và Internet. Nhưng nó cũng bắt nguồn từ sự đổi mới trong quản lý và tổ chức lại các chức năng và nhiệm vụ, việc này xảy ra khi các doanh nghiệp áp dụng các công nghệ mới. Cả hai tiến trình này phải thúc đẩy những bước nhảy vọt trong tăng trưởng năng suất trong nhiều lĩnh vực, hoặc ít nhất là trong một vài lĩnh vực quan trọng, để năng suất nhảy vọt trong toàn bộ nền kinh tế. Cuối cùng, việc áp dụng và tổ chức lại trong và ngoài các lĩnh vực phải được thúc đẩy bởi cạnh tranh, khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới và giúp thúc đẩy sự lan toả công nghệ.
Tuy nhiên, không phải tất cả việc tăng năng suất đều được tạo ra như nhau. Tăng năng suất có thể đạt được thông qua việc tăng khối lượng hoặc giá trị của xuất lượng cho một số giờ làm việc được định trước, hoặc nó có thể xảy ra do việc giảm số giờ làm việc cho một xuất lượng định trước. Thường thì cả hai việc xảy ra cùng một lúc. Nhưng đó là khi tăng năng suất vượt quá giá trị xuất lượng mà một chu kỳ gương mẩu được tạo ra, trong đó canh tân và đầu tư tạo ra sự tăng trưởng về nhân dụng và lương bổng, từ đó tạo ra nhu cầu về xuất lượng tăng (hoặc có giá trị hơn). Đây là những gì đã xảy ra trong giai đoạn từ 1995 đến 2005. Tuy nhiên, khi nguồn tăng giá trị năng suất vượt quá nguồn tăng sản lượng, một chu kỳ luẩn quẩn dẫn đến việc các doanh nghiệp giảm chi phí lao động nhanh hơn là tăng khối lượng hoặc giá trị xuất lượng, từ đó gây áp lực cho việc làm và thu nhập.
Tiềm năng sau đại dịch
Đại dịch đã chuẩn bị cho các nền kinh tế tiên tiến một giai đoạn tăng năng suất nhanh chóng khác. Vẫn còn quá sớm để xác định liệu là sự tăng trưởng như vậy sẽ là kết quả của một chu kỳ đáng noi theo hay luẩn quẩn không, nhưng các dấu hiệu cho thấy đó là một chu kỳ mẩu mực. Bất chấp tình trạng bất trắc, căng thẳng và hoạt động kinh tế giảm mạnh trong những ngày đầu của cuộc khủng hoảng COVID-19, nhiều doanh nghiệp đã mạnh dạn triển khai và sử dụng công nghệ đa năng mới, đặc biệt là công nghệ kỹ thuật số, theo những cách đã thúc đẩy tăng năng suất đáng noi theo trong quá khứ. Vào tháng 10 năm 2020, chúng tôi đã khảo sát 900 giám đốc điều hành trong các lĩnh vực và quốc gia khác nhau và thấy rằng nhiều ngành và nhiều nơi đã số hóa hoạt động kinh doanh của họ nhanh gấp 20 đến 25 lần so với trước đây mà họ nghĩ là có thể.
Thông thường, điều này có nghĩa là chuyển doanh nghiệp của họ sang các kênh trực tuyến, vì khoảng 60% các doanh nghiệp mà chúng tôi khảo sát đã trải qua sự gia tăng đáng kể nhu cầu của khách hàng đối với hàng hóa và dịch vụ trên mạng do hậu quả của đại dịch.
Trước trận đại dịch, thương mại điện tử được dự báo sẽ chiếm chưa đến một phần tư trong tổng doanh số bán lẻ của Hoa Kỳ vào năm 2024. Nhưng trong hai tháng đầu tiên của cuộc khủng hoảng COVID-19, thị phần bán lẻ của thương mại điện tử đã tăng hơn gấp đôi, từ 16% lên 33%.
Và sự tăng trưởng đó không chỉ phản ánh các doanh nghiệp truyền thống thiết lập cửa hàng trực tuyến lần đầu tiên. Các doanh nghiệp đã được số hóa cao trước trận đại dịch đã mở rộng đáng kể khả năng trực tuyến của họ để đáp ứng nhu cầu tăng đột biến. Họ cũng tổ chức lại các hoạt động của mình, bao gồm cả hậu cần, để bổ sung cho những gì họ đang làm kỹ thuật số – ví dụ, bằng cách mở rộng khả năng giao hàng tận nhà cho khách.
Các doanh nghiệp cũng cố gắng trở nên hiệu quả và linh hoạt hơn. Ở châu Âu và Bắc Mỹ, gần một nửa số người tham gia cuộc khảo sát của chúng tôi cho biết là đã giảm chi phí điều hành như một phần doanh thu từ tháng 12 năm 2019 đến tháng 12 năm 2020. Hai phần ba Giám đốc Điều hành cấp cao cho biết là tăng đầu tư vào tự động hóa và trí tuệ nhân tạo, hoặc là để giúp các hoạt động kho bãi và hậu cần để đối phó với khối lượng thương mại điện tử cao hơn hoặc cho phép các nhà máy sản xuất đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng.
Nhiều doanh nghiệp đã sử dụng công nghệ để giảm mật độ thực tế ở nơi làm việc hoặc để cho phép dịch vụ không cần tiếp xúc – ví dụ, bằng cách mở rộng tự thanh toán trong các cửa hàng tạp hóa và hiệu thuốc và sử dụng các ứng dụng đặt hàng trực tuyến cho các nhà hàng và khách sạn. Các doanh nghiệp khác, chẳng hạn như nhà máy đóng gói thịt và gia cầm, đã đẩy nhanh việc triển khai máy robot để giảm nhu cầu lao động của họ. Nếu có một bài học từ trong trận đại dịch, đó là khả năng của kỹ thuật số song hành với sự phục hồi.
Nhưng ngay cả khi thuốc chủng vắc-xin đã có, chúng ta có thể tưởng tượng ra tình trạng bình thường tương đối trở lại ở các nơi trong thế giới phát triển, việc tiếp tục số hóa và áp dụng các đổi mới công nghệ khác hứa hẹn sẽ mang lại năng suất cao hơn. Thành quả lớn nhất trong số này – khoảng hai phần trăm điểm bổ sung mỗi năm – có thể đến trong các lĩnh vực y tế, xây dựng, công nghệ thông tin, bán lẻ, dược phẩm và các ngân hàng. Ví dụ như trong y tế, đẩy nhanh việc sử dụng y tế từ xa vượt ra ngoài đại dịch có thể thúc đẩy tăng năng suất trong nhiều năm. Theo một cuộc thăm dò gần đây của Hoa Kỳ, 76% bệnh nhân quan tâm đến việc sử dụng trị liệu y tế bằng từ xa trong tương lai và các chuyên gia trong kỷ nghệ dự đoán rằng 20% trong phần chi cho các dịch vụ y tế có thể được cung cấp qua mạng – tăng từ 11% trước đại dịch. Các lĩnh vực khác, bao gồm tự động, du lịch và hậu cần, cho thấy ít tiềm năng tăng năng suất hơn, nhưng vẫn còn đáng kể, đó là kết quả việc lập thời biểu công việc linh hoạt hơn, hoạt động tinh gọn hơn và mua sắm thông minh hơn.
Nhìn chung, những canh tân và thay đổi tổ chức này có thể thúc đẩy tăng năng suất khoảng một phần trăm điểm mỗi năm từ nay cho đến năm 2024 tại Hoa Kỳ và sáu nền kinh tế lớn của châu Âu mà chúng tôi đã phân tích (Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha, Thụy Điển và Vương quốc Anh). Mức tăng này sẽ dẫn đến tỷ lệ tăng năng suất cao gấp đôi so với tỷ lệ sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 và tại Hoa Kỳ, nó sẽ mở rộng cho GDP tính bình quân theo đầu người khoảng 3.500 đô la vào năm 2024. Đó sẽ là một kết quả tuyệt vời, nhưng nó sẽ phụ thuộc vào việc tiếp tục áp dụng công nghệ của các doanh nghiệp và duy trì nhu cầu mạnh mẽ.
Thậm chí nhiều tăng năng suất hơn có thể sớm xảy ra nhờ những tiến bộ khác. Ví dụ như cuộc cách mạng đang tăng tốc trong sinh học có thể chuyển đổi các lĩnh vực từ y tế và nông nghiệp sang hàng tiêu dùng, năng lượng và vật liệu. Canh tân sinh học đã cho phép phát triển nhanh chóng vắc-xin mới cho COVID-19. Các cuộc cách mạng đầy ấn tượng không kém về năng lượng làm cho việc áp dụng rộng rãi năng lượng mặt trời và gió là khả thi, đặc biệt là trong bối cảnh tiến bộ gần đây đối với pin tốt hơn (và rẻ hơn). Trí tuệ nhân tạo cũng đang thăng tiến nhanh chóng, nhưng vẫn còn một chặng đường dài để được triển khai rộng rãi trên các doanh nghiệp và lĩnh vực. Khi nào và nếu điều đó xảy ra, mức tăng năng suất có thể là rất lớn.
Tuân theo nhà lãnh đạo kỷ thuật số
Thành tựu trong tương lai về năng suất, ngay cả thúc đẩy tăng trưởng toàn diện, có thể là không đồng đều. Chúng tôi đã phân tích các số liệu có tiềm năng đưa ra tăng năng suất trong tương lai, chẳng hạn như kinh phí cho nghiên cứu và phát triển, doanh thu, chi phí vốn (bao gồm chi phí cho kỹ thuật số), sáp nhập và mua lại – và thấy rằng đặc biệt là ở Hoa Kỳ, một số ít các đại doanh nghiệp dẫn đầu chiếm một phần lớn hoạt động trong tất cả các danh mục này một cách bất tương xứng. Từ quý III năm 2019 đến quý III năm 2020, các đại doanh nghiệp Mỹ (được định nghĩa là mười phần trăm của các doanh nghiệp đứng hàng đầu nếu tính theo doanh lợi) đã chứng kiến sự sụt giảm đáng kể về chi phí vốn và doanh thu so với các doanh nghiệp khác. Trong cùng thời gian, các đại doanh nghiệp Mỹ đã chi thêm 2,6 tỷ đô la cho kinh phí cho nghiên cứu và phát triển so với năm trước, trong khi tất cả các doanh nghiệp khác chỉ chi thêm 1,4 tỷ đô la.
Nếu khoảng cách trong đầu tư, canh tân và áp dụng công nghệ này giữa các đại doanh nghiệp và các doanh nghiệp lớn và nhỏ khác còn lại, các doanh nghiệp ít lợi nhuận hơn vẫn tồn tại, bất kỳ sự tăng tốc nào trong tăng năng suất sau đại dịch có thể không đạt được tiềm năng của mình. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã bị ảnh hưởng quá nặng nề bởi cuộc khủng hoảng COVID-19. Do đó, nhiều doanh nghiệp trong số này không thể đầu tư quy mô cho năng suất trong tương lai và bị tụt hậu so với các các đại doanh nghiệp. Đây là những gì đã xảy ra sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, khi chỉ có một số ít các doanh nghiệp đạt được tăng năng suất.
Nhưng chúng ta cũng còn cơ sở cho sự lạc quan dè dặt về khả năng của những doanh nghiệp nhỏ trong việc thu hẹp một số khoảng cách. Trước đại dịch, các đại doanh nghiệp có xu hướng số hóa cao và sáng tạo trong phương cách quản lý của họ, cũng như làm cho thu lợi hơn và kiên cường hơn. Do đó, họ có được vị thế tốt hơn để chống lại hoàn cảnh và thậm chí tận dụng các lội thế của cú sốc. Nhưng khi các doanh nghiệp và lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất phục hồi, và khi các doanh nghiệp thích nghi với kỹ thuật số đầu tiên chứng minh tiềm năng to lớn của các công nghệ này, nhiều doanh nghiệp tụt hậu kỹ thuật số có thể bắt kịp.
Thật vậy, trong một cuộc khảo sát khác của các giám đốc điều hành mà chúng tôi đã thực hiện vào tháng 12 năm 2020, khoảng 75% số người tham gia ở Bắc Mỹ và Châu Âu cho biết là họ dự kiến đầu tư vào các công nghệ mới sẽ tăng tốc đáng kể từ năm 2020 đến 2024, tăng từ 55% từ năm 2014 đến 2019. Sự gia tăng dự kiến này tương tự qua các tầm vóc của doanh nghiệp.
Một lý do khác cho sự lạc quan là vào năm 2020, một năm chứng kiến thời gian kinh tế đen tối nhất của đại dịch, 24% doanh nghiệp mới được thành lập tại Hoa Kỳ so với năm 2019. Châu Âu tụt sau Hoa Kỳ về số liệu này, năm 2020 tại Pháp, Đức và Vương quốc Anh, số liệu về việc tạo ra doanh nghiệp mới gần như không thay đổi vào và ở Ý và Tây Ban Nha giảm hơn 15%. Tuy nhiên, nếu sự gia tăng năng động kinh doanh của Mỹ vẫn tồn tại, nó sẽ góp phần tăng năng suất nhiều hơn.
Tuy nhiên, đầu tư, đổi mới và áp dụng công nghệ chỉ là một phân nửa của chu kỳ gương mẩu cho tăng trưởng năng suất. Phân nửa còn là nhu cầu về sản lượng mở rộng, nó sẽ dẫn đến, nói cách khác,việc tăng thu nhập từ năng suất tăng phải chảy đến cho những người mà họ sẽ chi thêm số tiền phụ trội.
Trong ngắn hạn, triển vọng về nhu cầu là tốt đẹp, đặc biệt là đối với các quốc gia đã đạt được tiến bộ trong việc tiêm phòng cho dân chúng và có thể là một trong những quốc gia đầu tiên khởi động cho nền kinh tế của họ. Nhu cầu bị dồn nén và tiết kiệm từ đại dịch có thể được giải toả cùng lúc, nó dẫn đến tình trạng mà người tiêu dùng dẫn đầu việc tăng nhu cầu. Tại Hoa Kỳ, dự luật hỗ trợ kinh tế trị giá 1,9 nghìn tỷ đô la của Tổng thống Joe Biden sẽ đẩy tăng nhu cầu cao hơn.
Trong trung hạn, triển vọng về nhu cầu cũng tương đối là vững chắc, mặc dù nó sẽ phụ thuộc vào vấn đề quy mô, mức triển khai và mức kéo dài của công chi. Tại Hoa Kỳ, Biden hiện nay đã đặt mục tiêu của mình vào một chương trình cơ sở hạ tầng quy mô. Khi chính quyền của Biden chuyển trọng tâm từ cứu trợ kinh tế sang đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất, nó cũng có thể tăng năng suất bằng cách tăng nhu cầu để phù hợp với nguồn cung tiềm năng, tạo ra một nền kinh tế có áp lực cao, nghĩa là một nền kinh tế có tỷ lệ thất nghiệp thấp và tăng trưởng cao. Triển vọng ở lục địa châu Âu, nơi hỗ trợ kinh tế của chính phủ quy mô lớn khó phối hợp hơn, ít chắc chắn hơn. Tuy nhiên, cơ quan Liên Âu đã đưa ra một kế hoạch chưa từng có với tổng trị giá khoảng 900 tỷ đô la để thúc đẩy đầu tư vào việc chuyển đổi kỹ thuật số và năng lượng xanh.
Nhưng công chi cho quy mô này có thể sẽ bị giới hạn trong thời gian, làm cho triển vọng dài hạn cho nhu cầu kém khởi sắc hơn. Hơn nữa, các vấn đề bị bỏ quên từ lâu, bao gồm chia sẻ doanh thu đang giảm cho công nhân, tình trạng bất bình đẳng ngày càng gia tăng và mức giảm sút trong dài hạn của đầu tư tư nhân, tất cả có thể kéo nhu cầu giảm xuống theo. Khoảng 60% mức tăng năng suất sau đại dịch mà chúng tôi ước tính có thể đến từ những canh tân và tái cấu trúc tổ chức, một phần trăm điểm tăng tốc mỗi năm từ hiện nay cho đến năm 2024, sẽ xuất phát từ các biện pháp do doanh nghiệp đề ra, chẳng hạn như tự động hóa, được thiết kế để cắt giảm lao động và các chi phí kinh doanh khác.
Trừ khi các doanh nghiệp làm nhiều hơn để thúc đẩy cho khối lượng hoặc giá trị sản lượng và giúp cho công nhân chuyển đổi bằng cách có được các kỹ năng mới, động lực cho việc tăng hiệu quả sẽ có nguy cơ gây ra một chu kỳ luẩn quẩn, thay vì là gương mẩu, nó làm suy yếu tiền lương việc làm và nhu cầu thúc đây tiêu dùng và đầu tư.
Tuy nhiên, đầu tư, canh tân và áp dụng công nghệ chỉ bằng một nửa chu kỳ mẩu mực cho tăng trưởng năng suất. Một phân nửa còn lại là nhu cầu về tăng sản lượng, mà nói cách khác, nó dẫn đến tình trạng tăng thu nhập qua năng suất tăng phải mang đến cho những người mà họ sẽ chi và số tiền bổ sung đó dùng để tăng khối lượng hoặc giá trị sản lượng của họ; nó giúp cho công nhân thay đổi bằng cách có được các kỹ năng mới, động lực cho hiệu quả sẽ tạo ra việc tăng năng suất có nguy cơ là một sự luẩn quẩn, thay vì một chu kỳ tích cực đáng noi theo; nó làm suy yếu tiền lương, việc làm, nhu cầu và đầu tư theo hướng tiêu dùng.
Một thời đại mới của sự năng động?
Các doanh nghiệp và chính phủ có thể làm gì để tận dụng triển vọng tích cực trong ngắn hạn và trung hạn về năng suất và cải thiện triển vọng trong dài hạn?
Đầu tiên, họ nên làm việc để tăng tốc độ áp dụng công nghệ và đổi mới quản lý, giúp những thay đổi này lan rộng trong và xuyên qua các lĩnh vực. Khi sự phục hồi bắt đầu, các doanh nghiệp cho đến gần đây đã tập trung vào quản lý khủng hoảng và sự sống còn nên đi theo sự dẫn dắt của các đại doanh nghiệp bằng cách đầu tư vào công nghệ và tái tổ chức. Các đại doanh nghiệp có thể hỗ trợ tiến trình này bằng cách hỗ trợ hệ sinh thái rộng lớn hơn của họ, đặc biệt là bằng cách kinh doanh với các doanh nghiệp nhỏ hơn để cung cấp các sản phẩm và dịch vụ bổ sung. Các chính phủ cũng có thể hỗ trợ cho tiến trình này bằng cách đầu tư vào các công trình nghiên cứu và phát triển.
Các nhà hoạch định chính sách cũng nên tìm cách tăng cường cạnh tranh và năng động kinh doanh. Trong một nền kinh tế lành mạnh, các doanh nghiệp cần tăng thêm các giá trị thịnh vượng và phát triển cao nhất, trong khi các doanh nghiệp tạo thêm các giá trị thấp nhất thu hẹp hoặc biến mất: cái gọi là phá hủy sáng tạo. Các nhà hoạch định chính sách có thể làm hồi sinh và củng cố tiến trình phân loại tự nhiên này bằng cách sửa đổi các quy tắc cạnh tranh, luật thủ tục phá sản và các quy định về sản phẩm và thị trường lao động.
Các chính phủ và doanh nghiệp cũng nên hướng đến việc thúc đẩy nhu cầu và khuyến khích đầu tư kinh doanh, phần nửa còn lại là lo cho các chu kỳ mẩu mực cho năng xuất. Khi công chi giảm càng mạnh, các doanh nghiệp nên đóng vai trò của mình bằng cách tạo ra tăng doanh thu trên diện rộng đồng thời tìm các hiệu năng.
Ngoài ra, họ nên chi tiêu nhiều hơn cho việc nâng cấp kỹ năng của nhân viên, giúp họ tận dụng tối đa đổi mới công nghệ và tổ chức đồng thời giảm bất bình đẳng và thất nghiệp. Các chính phủ có thể khuyến khích các khoản đầu tư như vậy vào nguồn tư bản nhân lực thông qua nhận lại các khoản thuế để khuyến khích tái đào tạo và bằng cách chuyển gánh nặng thuế ra khỏi thu nhập lao động và hướng tới doanh thu tư bản.
Nhưng tăng trưởng năng suất không phải là tất cả, đặc biệt là hiện nay khi nó được đo lường và dự đoán. Nó không nắm bắt được các khía cạnh quan trọng của phúc lợi cá nhân và xã hội mà nó có thể được tăng tiến đáng kể trong môi trường hậu đại dịch. Ví dụ như sự lan truyền của các công nghệ kỹ thuật số có thể thúc đẩy các mô hình tăng trưởng kết hợp toàn diện hơn và trị liệu y tế từ xa có thể cung cấp các dịch vụ y tế sơ khởi kịp thời cho hàng triệu người ở các nước đang phát triển. Các biện pháp tăng năng suất cũng không chiếm một số ảnh hương ngoại tại tiêu cực liên quan đến canh tân hiện đại, sẽ kết hợp theo thời gian và ảnh hưởng sâu xa đến phẩm chất trong cuộc sống của mọi người.
Điều có lẽ điểm đáng chú ý nhất là năng suất hiện đang được đo lường mà không tính đến việc biến đổi khí hậu. Để giảm thiểu rủi ro đó trên toàn thế giới, cần đầu tư đáng kể vào các công nghệ làm cho năng lượng xanh hơn và hiệu quả hơn. Một số khoản đầu tư này sẽ làm tăng tăng năng suất. Ví dụ như xe chạy bằng điện không chỉ tốt cho môi trường; nó cũng đòi hỏi ít lao động hơn để sản xuất và do đó tăng năng suất. Trong phạm vi các khoản đầu tư tiết kiệm năng lượng, nó sẽ chuyển hướng nguồn lực và tài năng đến các lĩnh vực khác, thậm chí có khả năng năng suất cao hơn của nền kinh tế, chúng có thể làm giảm tăng trưởng năng suất trong ngắn hạn. Tuy nhiên, trong dài hạn, hiệu quả của chúng sẽ là tích cực, vì chúng sẽ ngăn chặn sự sụt giảm đáng kể năng suất trong tương lai, một trong số các kết cục thảm khốc khác. Nhiều lợi ích trong số này có thể không bao giờ được nắm bắt bởi các đo lường năng suất theo tiêu chuẩn, vì lợi ích này sẽ thể hiện một cuộc suy thoái chưa bao giờ xảy ra. Nhưng cuối cùng, một số việc tăng năng suất có thể nắm bắt được, đặc biệt là những lợi ích có liên quan đến cơ sở hạ tầng được thiết kế để giúp nền kinh tế thích nghi với biến đổi khí hậu.
Khi họ chuẩn bị thoát ra khỏi trận đại dịch, các chính phủ và doanh nghiệp sẽ phải quân bình các mục tiêu ngắn hạn và dài hạn này. Tuy nhiên, ngay cả trong hiện tại, khi COVID-19 tiếp tục gây thiệt hại cho con người và kinh tế, một tiềm năng đảo ngược dường như đang xuất hiện. Sau nhiều năm trong năng suất chậm chạp và tăng trưởng kinh tế sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, COVID-19 đã gây ra một sự háo hức trong canh tân công nghệ và tổ chức. Liệu sự cuồng nhiệt này có dẫn đến một thời đại năng động mới không, nó sẽ phụ thuộc vào những gì các chính phủ và các doanh nghiệp làm để duy trì một chu kỳ tích cực cho năng suất ngày càng to lớn hơn.
AMES MANYIKA là Chủ tịch và Giám đốc McKinsey Global Institute.
MICHAEL SPENCE đoạt giải Nobel Kinh tế năm 2001, là Giáo sư Philip H. Knight và Cựu Khoa trưởng Trường Kinh doanh Đại học Stanford.