Trump cần một kế hoạch thực tế, động lực mạnh mẽ và kiên nhẫn
Samuel Charap
Đỗ Kim Thêm dịch

Đối với những người muốn chấm dứt cuộc chiến tàn khốc của Nga ở Ukraine, cuộc bầu cử của Donald Trump mang đến một cơ hội quan trọng. Hoàn toàn trái ngược với Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden, người có chính quyền duy trì chính sách ủng hộ kiên định cho Ukraine mà không thúc đẩy một kết cục rõ ràng cho cuộc chiến, Trump gần như chỉ tập trung vào kết cục đó. Ông từ lâu đã nêu rõ ý định đưa hai bên vào bàn đàm phán ngay sau khi nhậm chức và thậm chí có thể là trước đó. Vài tuần sau khi thắng cử, ông đã bổ nhiệm một vị tướng đã nghỉ hưu và cựu quan chức cấp cao, Keith Kellogg, làm đặc sứ cho Nga-Ukraine, nhấn mạnh ưu tiên mà ông và chính quyền của mình sẽ đặt ra là chấm dứt chiến tranh.
Sự thay đổi triệt để sắp tới trong phương cách của Hoa Kỳ đối với cuộc chiến có thể khôi phục lại các cuộc đàm phán đã bị đình trệ kể từ tháng 4 năm 2022. Vào thời điểm đó, trong những tuần đầu tiên của cuộc chiến, Nga và Ukraine đã tiến hành một số vòng đàm phán trực tiếp và trực tuyến nhằm chấm dứt xung đột; mặc dù một khuôn khổ cho hòa bình được gọi là Thông cáo Istanbul đã được soạn thảo, nhưng một thỏa thuận chưa bao giờ được hoàn tất. Tuy nhiên, trong lúc chuẩn bị và kể từ cuộc bầu cử của Trump, đã có những dấu hiệu cho thấy cả Kyiv và Moscow có thể sẵn sàng quay lại bàn đàm phán. Điều này đặc biệt đúng đối với người Ukraine, những người đã mất đi nhiều đất đai – cũng như con người và năng lực sản xuất năng lượng – trong hai năm và cần được cứu trợ khẩn cấp trước khi tình hình nhân lực của họ trở nên nghiêm trọng. Nga cũng phải đối mặt với một số thách thức: họ đang giành được nhiều đất đai hơn mỗi ngày nhưng phải trả giá cực kỳ đắt đỏ, và Điện Kremlin muốn giữ vững những thành quả đó mà không phải chịu những chi phí khổng lồ vô thời hạn.
Mặc dù tổng thống đắc cử vẫn chưa đưa ra một kế hoạch rõ ràng để chấm dứt chiến tranh, nhưng đã đưa ra những gợi ý về phương cách có thể thực hiện. Cụ thể, Trump thường chỉ ra những tổn thất khủng khiếp về nhân mạng của cuộc chiến và thể hiện mong muốn chấm dứt giao tranh càng sớm càng tốt. Nhưng việc theo đuổi một thỏa thuận ngừng bắn mà không giải quyết được các động lực cơ bản của cuộc xung đột thì khó có thể thành công. Thật vậy, một thỏa thuận chỉ chấm dứt giao tranh có thể sẽ không được cả Kyiv và Moscow chấp nhận.
Để đạt được sức hút, bất kỳ phương cách nào của Hoa Kỳ đối với các cuộc đàm phán đều phải tính đến các động lực rộng hơn của cuộc xung đột đang diễn ra ở cả hai bên và cách chúng có thể được giải quyết một cách hợp lý. Chính quyền sẽ cần phải xây dựng một ván cờ kết thúc toàn diện cho cuộc chiến giải quyết các vấn đề cốt chủ yếu này và xây dựng một chiến lược ngoại giao để đạt được điều đó. Điều đó có nghĩa là không chỉ vạch ra lộ trình cho một lệnh ngừng bắn lâu dài mà còn xác định các cách đảm bảo an ninh cho Ukraine, cung cấp các động lực cho cả hai bên và vạch ra chiến lược ổn định quan hệ của Nga với phương Tây.
Đề ra cách kết thúc
Một điều kiện tiên quyết quan trọng để cho phương sách của Hoa Kỳ đàm phán thành công là một ván cờ tàn được xác định rõ ràng. Chính quyền Biden đã đưa ra chính sách không xác định mục tiêu của Hoa Kỳ đối với cuộc chiến ở Ukraine mà thay vào đó là hỗ trợ Ukraine „cho đến khi cần thiết“ và để Kyiv quyết định các chi tiết về kết quả mong muốn. Việc từ chối có mục tiêu rõ ràng của Hoa Kỳ này không phải là chuẩn mực đối với chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Mặc dù Hoa Kỳ có thể thấy khó xử khi nêu ra kết quả mong muốn cho một cuộc xung đột mà họ không tham gia trực tiếp, nhưng Washington thường làm như vậy khi lợi ích của Hoa Kỳ bị đe dọa và họ có đòn bẩy, chẳng hạn như trong các hiệp định hòa bình Dayton năm 1995 chấm dứt chiến tranh Balkan hoặc trong „lộ trình“ của Tổng thống George W. Bush để giải quyết xung đột Israel-Palestine. Thật vậy, bản thân Biden đã nêu rõ tầm nhìn của Hoa Kỳ về ván cờ tàn cho một cuộc xung đột đang diễn ra khác có ý nghĩa địa chính trị lớn, đó là cuộc chiến ở Gaza.
Trong bối cảnh này, việc Biden từ chối nêu rõ kế hoạch của Hoa Kỳ nhằm chấm dứt chiến tranh ở Ukraine là một sự thiếu sót rõ ràng. Trong phần lớn năm qua, sự im lặng của tổng thống về vấn đề này đã làm dấy lên sự tức giận của lưỡng đảng tại Quốc hội, nơi đã yêu cầu một chiến lược như vậy khi phê duyệt yêu cầu bổ sung 60 tỷ đô la của chính quyền cho Ukraine vào tháng 4. Hơn nữa, do không có chiến lược của Hoa Kỳ, các cường quốc khác, bao gồm Trung Quốc và Brazil, đã chế ngự cuộc thảo luận quốc tế về việc chấm dứt chiến tranh: Chỉ riêng Bắc Kinh đã soạn thảo ba kế hoạch hòa bình khác nhau. Việc Trump nhanh chóng chuyển hướng cuộc thảo luận đó khỏi các kế hoạch hòa bình của Trung Quốc – và thậm chí cả kế hoạch của Ukraine – nhấn mạnh đòn bẩy mà Hoa Kỳ luôn có để định hình cho kết quả.
Cho đến nay, Trump đã nói rằng ông muốn chiến tranh chấm dứt, nhưng ông vẫn chưa đưa ra kế hoạch để đạt được điều đó. Bất kỳ kế hoạch nào như vậy cũng phải bao gồm bốn đặc điểm chính: một thỏa thuận ngừng bắn được khổi thảo chu đáo, một sự đảm bảo khả tín về tình hình an ninh hậu chiến của Ukraine, một cách để giải trình trách nhiện về hành vi xâm lược của Nga và các biện pháp ổn định mối quan hệ giũa Nga-phương Tây. Vấn đề về việc bên nào kiểm soát lãnh thổ nào có lẽ sẽ không được quyết định tại bàn đàm phán; ranh giới tiếp xúc, có lẽ với một số trao đổi và điều chỉnh nhỏ, sẽ vẫn ở nguyên vị trí khi tiếng súng im bặt. Hơn nữa, kiểm soát lãnh thổ, mặc dù cực kỳ quan trọng đối với cả hai bên, nhưng cuối cùng không phải là mối quan tâm chính như những vấn đề chính trị rộng lớn hơn này. Và việc công nhận các cuộc sáp nhập của Nga được coi là không thể khởi động đối với cả Ukraine và những người ủng hộ phương Tây.
Trang bị cho con nhím
Để tránh giao tranh tái diễn, sáng kiến hòa bình của Hoa Kỳ phải bao gồm các biện pháp ngăn chặn Nga, đảm bảo cho Ukraine và cung cấp các động lực cho cả hai bên để duy trì lệnh ngừng bắn. Các đảm bảo an ninh cho Ukraine liên quan trực tiếp đến việc chấm dứt các hành động thù địch có thể thúc đẩy cả ba mục tiêu này. Nếu có các chi phí đáng kể liên quan đến một cuộc tấn công trong tương lai của Nga – cho dù là vì nó sẽ kích hoạt sự can thiệp của bên thứ ba hay sự trả đũa từ một Ukraine được trang bị vũ khí răn đe nâng cao – thì Moscow sẽ ít có khả năng thực hiện một cuộc tấn công như vậy. Và nếu Kyiv tin rằng an ninh của mình được đảm bảo, họ sẽ có thể tập trung vào phục hồi kinh tế và dân chủ thay vì trở thành một quốc gia cho trại binh đồn trú.
Kyiv đang tìm kiếm các đảm bảo an ninh dưới hình thức gia nhập khối NATO. Nhưng cả chính quyền Biden và chính quyền Trump sắp tới đều không muốn đưa ra khả năng đó trong suốt cuộc chiến hoặc ngay sau đó. Hơn nữa, ngăn chặn Ukraine gia nhập khối NATO đã là mục tiêu chính sách của Nga trong nhiều thập niên và là một trong những động cơ cốt lõi của Tổng thống Nga Vladimir Putin khi tấn công Ukraine vào năm 2022. Ngay cả khi tư cách thành viên trong liên minh là một lựa chọn khả thi, thì đó vẫn là một công cụ chính sách vụng về để chấm dứt chiến tranh. Việc gia nhập sẽ đòi hỏi sự chấp thuận của 32 quốc hội và do đó mất nhiều tháng nhất, và nó sẽ phụ thuộc vào việc Ukraine thực hiện nhiều cải cách không liên quan gì đến giải quyết xung đột.
Trên thực tế, có những cách khác có khả năng hiệu quả hơn để cung cấp bảo đảm an ninh cho Ukraine trong bối cảnh đàm phán chấm dứt chiến tranh. Trong nhiều lần kể từ Đệ nhị Thế chiến, Hoa Kỳ đã đưa ra các cam kết an ninh song phương với các đồng minh và đối tác trong các tình huống hậu xung đột tương tự. Hai tháng sau khi Chiến tranh Triều Tiên kết thúc, Hoa Kỳ đã ký một hiệp ước an ninh song phương với Nam Hàn, trong đó Washington cam kết sẽ hỗ trợ Seoul nếu nước này bị tấn công. Sau khi chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1973 kết thúc, Hoa Kỳ đã đạt được một thỏa thuận với Israel trong đó cam kết „hành động báo phục“ nếu Ai Cập vi phạm lệnh ngừng bắn hoặc nếu có „mối đe dọa đối với an ninh hoặc chủ quyền của Israel từ một cường quốc thế giới“. Những phương cách này giúp tạo ra các giai đoạn tương đối ổn định và hòa bình lâu dài, có thể cung cấp các mô hình cho những gì có thể được cung cấp cho Ukraine trong một cuộc đàm phán trong tương lai.
Một loại bảo đảm an ninh khác có thể xảy ra ở dạng tư cách thành viên của Ukraine trong Liên Âu. Điều 42.7 của Hiệp ước Liên minh Châu Âu, được gọi là điều khoản hỗ trợ lẫn nhau của Liên Âu, nêu rõ rằng nếu „một quốc gia thành viên là nạn nhân của hành vi xâm lược có vũ trang trên lãnh thổ của mình, các quốc gia thành viên khác sẽ có nghĩa vụ hỗ trợ và giúp đỡ bằng mọi cách trong khả năng của mình“. Có thể nói rằng ngôn ngữ này ràng buộc hơn cả cam kết phòng thủ chung của Điều 5 khối NATO và Nga đã đồng ý không cản trở tư cách thành viên EU của Ukraine trong các cuộc đàm phán năm 2022.
Cho dù Ukraine có nhận được các cam kết ràng buộc bên ngoài về an ninh hay không, nước này sẽ cần một biện pháp răn đe độc lập dưới hình thức lực lượng vũ trang mạnh. Chính quyền Biden và nhiều đồng minh NATO đã đặt nền móng cho việc cung cấp cho Ukraine các khóa đào tạo cần thiết, chuyển giao vũ khí và hợp tác tình báo để tạo ra sự răn đe này trong các thỏa thuận an ninh song phương được ký kết vào đầu năm nay. Nhưng các đối tác của Ukraine cần cân nhắc cách tốt nhất để trang bị vũ khí cho Ukraine nhằm đảm bảo hòa bình bền vững. Ví dụ, việc tạo điều kiện cho một lực lượng tập trung vào khả năng tấn công vũ trang kết hợp và khả năng tấn công tầm xa có thể khiến cuộc xâm lược thứ hai của Nga có nhiều khả năng xảy ra hơn, chứ không phải ít hơn, bằng cách làm trầm trọng thêm nhận thức về mối đe dọa của Điện Kremlin.
Thay vào đó, các đồng minh nên tạo điều kiện cho Ukraine áp dụng „mô hình con nhím“ về phòng thủ thông qua hợp tác an ninh của họ. Điều này sẽ đòi hỏi phải giúp Ukraine phát triển một lực lượng được tối ưu hóa để bảo vệ lãnh thổ mà Kyiv kiểm soát khi giao tranh kết thúc, thay vì cung cấp đào tạo nhằm cải thiện khả năng chiếm lại lãnh thổ do Nga chiếm giữ. Tất nhiên, không có sự phân biệt rõ ràng giữa khả năng tấn công và phòng thủ và không có hướng dẫn sẵn có nào về việc mô hình con nhím cho Ukraine sẽ như thế nào. Nhưng viện trợ tập trung vào việc giúp Kyiv giữ lãnh thổ sẽ giúp lực lượng Ukraine trong tương lai có hiệu quả hơn trong việc ngăn chặn một cuộc tấn công của Nga trong tương lai.
Cam kết của Nga
Không chỉ có các mệnh lệnh từ Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky và Putin để chấm dứt giao tranh ở tiền tuyến một cách bền vững, mà còn cần nhiều hơn. Trước hết, xét theo tiêu chuẩn của các cuộc xung đột toàn cầu hiện nay, mức độ quy mô của mặt trận là bất thường và đặt ra những thách thức. Xét đến các khu vực không tranh chấp dọc biên giới của Ukraine với Belarus và Nga, cũng như đường tiếp xúc ở Ukraine, mặt trận này kéo dài gần 1.200 dặm.
Việc giám sát một đường ranh giới như vậy sẽ cần đến hàng chục nghìn lính gìn giữ hòa bình, một con số lớn không tưởng – điều này rất khó xảy ra, ngay cả khi Nga và Ukraine đồng ý cho phép một lực lượng như vậy. Tuy nhiên, các hệ thống và cảm biến không người lái có thể được tận dụng để thiết lập một hệ thống giám sát hiệu quả dọc theo các đường ngừng bắn. Một hệ thống như vậy có thể sẽ yêu cầu sự giám sát của bên thứ ba để đánh giá thông tin thu được và phân xử các tranh chấp. Các cơ chế giải trình sẽ phải được xây dựng để đảm bảo rằng các hành vi vi phạm phải trả giá. Và một khu phi quân sự với những giới hạn rõ ràng cho việc điều quân ở cả hai bên nên được soạn thảo chu đáo để tránh những cạm bẫy của các thỏa thuận Minsk – các thỏa thuận được ký kết vào năm 2014 và 2015 nhằm chấm dứt giai đoạn trước đó của cuộc chiến tranh của Nga – không bao gồm một ranh giới ngừng bắn được thỏa thuận chung hoặc các cam kết rút quân rõ ràng.
Một vấn đề quan trọng khác sẽ là đảm bảo rằng hành động xâm lược của Điện Kremlin sẽ kéo theo những chi phí lâu dài để ngăn chặn Nga hoặc bất kỳ quốc gia nào khác xâm lược các nước láng giềng. Mặc dù Putin chắc chắn sẽ tuyên bố chiến thắng khi cuộc giao tranh dừng lại, nhưng phần còn lại của thế giới không nên có ấn tượng rằng Nga không phải trả giá cho hành động xâm lược của mình. Phương Tây có thể áp đặt những chi phí đó bằng cách duy trì một số lệnh trừng phạt và kiểm soát xuất khẩu như các biện pháp được áp dụng trong thời gian dài – hoặc cho đến khi Nga rút quân hoàn toàn khỏi Ukraine. Ngoài ra, như một phần của thỏa thuận, số tài sản nhà nước trị giá khoảng 300 tỷ đô la của Nga hiện đang bị đóng băng ở các nước phương Tây có thể được chuyển đến để tái thiết Ukraine – với sự đồng ý rõ ràng của Nga. Rất có thể Điện Kremlin thừa nhận rằng họ sẽ không bao giờ nhìn nhận những khoản tiền đó nữa, vì vậy một thỏa thuận như vậy không phải là không thể. Trừ khi Moscow đồng ý hợp pháp rằng các khoản tiền được sử dụng cho mục đích đó, các cường quốc châu Âu sẽ tiếp tục phản đối việc chi tiêu chúng vì sợ tạo ra tiền lệ nguy hiểm. Để đổi lại, Moscow có thể yêu cầu là Ukraine từ bỏ yêu cầu bồi thường bằng tiền tiếp theo đối với Nga do các thiệt hại gây ra trong chiến tranh.
Nga cũng sẽ cần một số động lực tích cực để tuân thủ một giải pháp. Các đảm bảo rằng Ukraine sẽ vẫn không liên kết, các lực lượng và cơ sở hạ tầng nước ngoài sẽ không được triển khai ở Ukraine và có thể đạt được sự hiểu biết chung về các giới hạn quân viện của phương Tây, có thể được đưa ra thảo luận – và những đảm bảo như vậy không nhất thiết phải không tương thích với các đảm bảo an ninh của phương Tây đối với Ukraine. Những điều này sẽ tương tự như những gì các bên tự hình dung trong Thông cáo Istanbul năm 2022. Các động lực cũng có thể bao gồm việc giảm nhẹ một phần các lệnh trừng phạt, với các điều khoản khôi phục để áp đặt lại chúng nếu Nga vi phạm các điều khoản của thỏa thuận. Hơn nữa, Nga khó có thể đồng ý chấm dứt giao tranh mà không có các cuộc đàm phán về các vấn đề NATO-Nga mà nó vượt ra ngoài vấn đề Ukraine, chẳng hạn như cân bằng lực lượng quy ước và khả năng tấn công tầm xa trên lục địa. Việc đồng ý với một tiến trình tham vấn để giải quyết những vấn đề này song song với các cuộc đàm phán về chính cuộc chiến có thể là một phần của các thỏa thuận nhằm chấm dứt chiến tranh. Việc thiết lập một tiến trình như vậy không phải là một món quà cho Nga; nó cũng phục vụ cho lợi ích của phương Tây vì bất kỳ giải pháp lâu dài nào cũng sẽ đòi hỏi phải xử lý những căng thẳng rộng hơn giữa Nga và phương Tây.
Thông đạt là chủ yếu
Ngoài việc xác định các yếu tố chính của một giải pháp, Hoa Kỳ cần có một kế hoạch để đạt được điều đó. Bước đầu tiên là Washington phải bắt đầu đối thoại với Kyiv và các đồng minh của Hoa Kỳ về ván cờ cuối cùng. Thật đáng ngạc nhiên là rất ít thời gian được dành cho vấn đề này kể từ khi chiến tranh bắt đầu. Thật vậy, cho đến ngày nay, nhiều quan chức cấp cao của Hoa Kỳ và châu Âu coi đây là ưu tiên thứ yếu; vào tháng 12, tân tổng thư ký của khối NATO, Mark Rutte, đã nói, „Chúng ta cần có những cuộc tranh luận này, nhưng trong tương lai gần, điều quan trọng nhất là đưa quân viện của các bạn vào Ukraine“.
Phương cách này cần phải thay đổi. Một cuộc đàm phán đang đến gần và các quan chức Hoa Kỳ và châu Âu cần phải sẵn sàng. Việc chuẩn bị cho các cuộc đàm phán và xây dựng sự đồng thuận về phương cách chung sẽ mất thời gian – và nên bắt đầu ngay. Việc tham gia của Ukraine sẽ rất cần thiết. Nếu không có lời khuyên từ Hoa Kỳ và các đồng minh, Kyiv đã đưa ra những ý tưởng không thực tế về việc chấm dứt chiến tranh – chẳng hạn như kế hoạch chiến thắng của Zelensky được công bố vào mùa thu năm nay. Tổng thống Ukraine và nhóm cộng sự của ông sẽ được hưởng lợi từ sự tham gia thường xuyên với các đối tác phương Tây về chiến lược ngoại giao để tránh sự bất hòa này.
Bước tiếp theo là mở các kênh liên lạc với Nga. Không có cuộc đối thoại thường xuyên nào giữa Moscow và các thủ đô chính của phương Tây kể từ khi cuộc xâm lược toàn diện bắt đầu. Để các cuộc đàm phán có bất kỳ cơ hội thành công nào, việc trao đổi quan điểm, ngay cả khi không có kỳ vọng đạt được thỏa thuận, phải trở thành quy tắc chứ không phải là ngoại lệ như hiện nay. Về vấn đề này, việc Trump bổ nhiệm Kellogg làm đặc sứ cho cuộc chiến là một cơ hội quan trọng, vì nó có thể được sử dụng để thuyết phục Putin bổ nhiệm một đối tác người Nga. Điều đó sẽ làm giảm đáng kể sự tham gia với Moscow; hiện tại, không ai trong Điện Kremlin có vẻ có thẩm quyền đàm phán về những vấn đề này.
Cuối cùng, trước khi bắt đầu các cuộc đàm phán thực tế, Hoa Kỳ nên thúc đẩy các biện pháp giảm leo thang. Hai nỗ lực như vậy đã được đưa ra trên bàn thảo luận: một thỏa thuận do Thổ Nhĩ Kỳ làm trung gian để tránh các cuộc tấn công vào tàu chở dân sự ở Biển Đen và một thỏa thuận do Qatar đàm phán để tránh các cuộc tấn công vào cơ sở hạ tầng năng lượng. Văn bản của cả hai thỏa thuận đã phần lớn được chung quyết, nhưng không bên nào đạt được mục tiêu. Một động thái thúc đẩy từ Washington có thể giúp ích. Các biện pháp bổ sung như vậy có thể bao gồm các cam kết không tấn công vượt quá một khoảng cách nhất định tính từ đường tiếp xúc; trao đổi tù binh chiến tranh toàn diện, trái ngược với thông lệ hiện tại là chỉ trao đổi số lượng tù nhân ngang bằng và hạn chế; và cam kết không tham gia vào các cuộc đột kích tiếp theo qua các khu vực biên giới quốc tế mà cả hai bên vẫn công nhận như vậy. (Biện pháp cuối cùng đó sẽ loại trừ một cuộc tấn công Kursk khác nhưng cũng loại trừ bất kỳ nỗ lực nào của Nga nhằm tạo ra vùng đệm ở khu vực Sumy của Ukraine, giáp ranh với Kursk.)
Nếu một số bước trong số này bắt đầu có kết quả, các cuộc tham vấn có thể bắt đầu theo nhiều hướng. Ngoài các cuộc tiếp xúc song phương giữa Kyiv và Moscow, một nhóm đặc trách liên lạc được thiết lập có sự tham gia của Ukraine, Nga, các cường quốc chính phương Tây và có thể là Trung Quốc có thể được thành lập. Vấn đề riêng biệt là các cuộc đối thoại về các vấn đề Hoa Kỳ-Nga và NATO-Nga có thể bắt đầu song song.
Chuyện lâu dài, không phải chỉ một ngày
Khi Trump và Kellogg chuẩn bị khởi động các cuộc đàm phán, có một số cạm bẫy quan trọng cần tránh. Đầu tiên, điều quan trọng là phải xử lý kỳ vọng – kỳ vọng của cả công chúng và chính phủ liên quan. Lời hứa đàm phán trong vòng 24 giờ của Trump có thể chỉ là tham vọng, nhưng có vẻ như rõ ràng là nhóm cộng sự của ông muốn hành động nhanh chóng. Tuy nhiên, giống như nhiều cuộc đàm phán xung đột trước đây, khả năng cao là các nỗ lực đàm phán ban đầu sẽ thất bại; con đường sẽ rất dài và đòi hỏi nhiều thời gian cũng như sự chú ý của cấp cao từ Hoa Kỳ và các đồng minh. Mức độ thù địch giữa Nga và Ukraine – và giữa Nga và phương Tây – và sự thiếu thông đạt giữa các bên trong vài năm qua sẽ khiến các cuộc đàm phán rất khó khăn để bắt đầu và sẽ rất khó khăn khi chúng bắt đầu.
Sẽ rất ngạc nhiên nếu các nỗ lực ngoại giao nhằm chấm dứt chiến tranh thành công trong vòng chưa đầy một năm – nếu chúng thành công. Hãy xét rằng phải mất hai năm và hơn 500 cuộc họp để các bên tham gia hiệp định đình chiến Triều Tiên đi đến thoả thuận. Ngoài việc ngăn chặn giao tranh ở Ukraine, nhiệm vụ thậm chí còn lớn hơn là ổn định quan hệ Nga-phương Tây có thể sẽ đòi hỏi một tiến trình mở rộng thay vì một văn bản thoả thuận duy nhất. Một rủi ro khác khi thúc đẩy một thỏa thuận nhanh chóng là nó có thể tạo ra ấn tượng rằng Hoa Kỳ coi trọng việc đạt được một thỏa thuận hơn là đạt được một thỏa thuận tốt. Washington sẽ không muốn tạo ra kỳ vọng ở Moscow rằng Hoa Kỳ không quan tâm đến các chi tiết và do đó sẵn sàng nhượng bộ đáng kể vì lợi ích của một giải pháp nhanh chóng.
Một cạm bẫy khác sẽ là việc sử dụng tối hậu thư để buộc các bên chấp nhận một thỏa thuận. Một số người trong quỹ đạo của Trump đã ủng hộ việc sử dụng quân viện của Hoa Kỳ cho Ukraine như một cây gậy chống lại bất kỳ bên nào tỏ ra cứng rắn trong các cuộc đàm phán: bằng cách đe dọa tăng cường viện trợ cho Kyiv để gây sức ép lên Nga hoặc cắt đứt nếu Ukraine từ chối thực hiện các thỏa hiệp cần thiết. Cả hai bước đều có thể phản tác dụng. Hoa Kỳ không có lợi ích gì khi cắt đứt hoàn toàn viện trợ cho Ukraine trong hầu hết mọi trường hợp, vì điều đó có thể tạo điều kiện cho Nga tiếp thu đất nước. Với lượng viện trợ mà Hoa Kỳ đã cung cấp cho Ukraine, Washington không có nhiều chỗ để mở rộng dòng vũ khí về mặt số lượng, và việc tăng thêm về chất lượng sẽ dẫn đến những rủi ro leo thang không thể chấp nhận được. Trong mọi trường hợp, những mối đe dọa như vậy khó có thể chứng minh được hiệu quả: Đòn bẩy của Hoa Kỳ với Nga và Ukraine là đáng kể, nhưng không quá nhiều đến mức buộc một trong hai bên phải chấp nhận những gì họ coi là một thỏa thuận tồ tê hại vì cả hai đều coi các vấn đề đang bị đe dọa là vấn đề sống còn hoặc gần như sống còn.
Thứ ba, Trump và Kellogg nên tránh biến đây thành một cuộc đàm phán song phương giữa Hoa Kỳ và Nga. Bỏ qua sự vô đạo đức và những tiếng vang lịch sử xấu xí khi loại Kyiv khỏi việc tự quyết định số phận của mình, cần phải lôi kéo phía Ukraine vào cuộc vì lý do hoàn toàn thực dụng: Ukraine có thể phá hỏng bất kỳ thỏa thuận nào mà họ thấy không thể chấp nhận được. Ngoài ra, có những lý do thực tế bắt buộc để giữ cho người châu Âu và các đồng minh khác của Hoa Kỳ như Nhật Bản tham gia: quá trình gia nhập Liên Âu là chìa khóa cho sự ổn định trong tương lai của Ukraine; các nguồn lực kinh tế của các đồng minh sẽ là cần thiết để hỗ trợ tái thiết; và việc có một lập trường thống nhất giữa Hoa Kỳ và châu Âu sẽ ngăn chặn Nga hoặc Ukraine chơi trò này chống lại bên kia.
Mặc dù việc một tổng thống Hoa Kỳ lên nắm quyền cam kết nhanh chóng chấm dứt chiến tranh làm tăng khả năng đột phá, nhưng nó cũng đặt ra những rủi ro lớn. Đây sẽ là những cuộc đàm phán có rủi ro cao, chủ yếu là giữa hai bên tham chiến cay đắng trong một cuộc chiến đã giết chết hàng chục nghìn người- và có thể là hàng trăm nghìn người – ở cả hai bên. Nếu những nỗ lực của Trump thất bại, động lực của cuộc xung đột sẽ không chỉ đơn giản là quay trở lại trạng thái ổn định như trước: cuộc chiến đang leo thang và cũng đang trở nên quốc tế hóa hơn. Với tầm nhìn rõ ràng về kết cục và kế hoạch để đạt được điều đó, chính quyền mới có thể giúp chấm dứt nỗi kinh hoàng này và những rủi ro ngày càng tăng mà nó gây ra cho thế giới nói chung.
***
Samuel Charap là Chủ tịch danh dự về Chính sách Nga và Á-Âu và là Nhà khoa học chính trị cấp cao tại Tập đoàn RAND