Joseph E. Stiglitz
Đỗ Kim Thêm dịch

Nguồn ảnh: Phill Magakoe/AFP via Getty Images
Với xác suất cao độ là chúng ta sẽ đối phó với một trận đại dịch khác, cộng đồng quốc tế đang tham gia đúng lúc vào các cuộc thảo luận về cách cải thiện trong thời gian tới. Nhưng việc thỏa thuận mới nhất của Liên Hiệp Quốc về vấn đề này chỉ đưa ra những lời vô nghĩa, thay vì các biện pháp cụ thể cần thiết để chận đứng về một mầm bệnh mới.
Nhân loại đã mất cảnh giác bởi trận đại dịch COVID-19, mặc dù chúng ta đã được cảnh báo hữu hiệu bởi các đợt bùng phát có quy mô nhỏ hơn của các trận SARS, Ebola, MERS và cúm gia cầm trong nhiều thập kỷ. Tổng thống Mỹ Barack Obama nhận ra được bản chất thực sự của mối đe dọa mà các bệnh truyền nhiễm có thể gây ra, thậm chí đã thành lập một cơ quan về An ninh Y tế và Phòng thủ Sinh học Toàn cầu ngay trong Hội đồng An ninh Quốc gia. Nhưng Donald Trump, với sự khôn ngoan vô hạn của mình, đã dẹp bỏ cơ sở này.
Với một xác suất cao độ cho rằng sớm hay muộn gì chúng ta sẽ đối phó với một trận đại dịch khác, cộng đồng quốc tế đang tham gia đúng lúc vào các cuộc thảo luận về cách cải thiện trong thời gian tới. Tháng trước, một cuộc họp cấp cao của Liên Hiệp Quốc về việc phòng ngừa, chuẩn bị và ứng phó với trận đại dịch (Pandemic Prevention, Preparedness, and Response, PPPR) đã đưa ra “một bản tuyên bố chính trị“ được ca ngợi là một bước ngoặt. Như Carolyn Reynolds, đồng sáng lập viên về Mạng lưới Hành động Đại dịch nói, Bản dự thảo dài 14 trang thừa nhận rằng, PPPR „nhiều hơn là vấn đề y tế quốc gia mà là an ninh toàn cầu và quốc gia và vấn đề kinh tế. Giống như biến đổi khí hậu, đại dịch là một rủi ro có hệ thống trong toàn cầu và mối đe dọa sinh tồn đối với nhân loại, và chúng ta cần xử lý với chúng như vậy“.
Nhưng đây không phải chỉ là xác định chuyện rõ ràng? Trong khi một số người ca ngợi thỏa thuận này là „lịch sử“, nhưng nó không đi kèm với các lời cam kết chắc chắn từ phía các chính phủ. Chúng ta đã biết những gì sẽ cần để cải thiện cho thời gian tới. Sau khi COVID-19 lan rộng trên toàn cầu, hàng triệu người ở các nước nghèo đã chết vì thiếu các loại thuốc mà nó đang được tích trữ ở các nước giàu. Chúng ta cần các ngoại lệ thuộc về tất cả luật tác quyền trí tuệ (intellectual property, IP) liên quan đến mầm bệnh đại dịch – bao gồm vắc-xin, xét nghiệm, thiết bị bảo vệ cá nhân và phương pháp điều trị – cũng như cam kết từ mọi người để chia sẽ công nghệ của họ và cung cấp tất cả các khoản tiền cần thiết để giúp các nước nghèo hơn.
Tuy nhiên, trong cuộc khủng hoảng COVID-19, chúng ta đã thấy ngay cả các giới ủng hộ mạnh mẽ nhất của việc quản trị quốc tế, cụ thể là Hoa Kỳ, tỏ ra ít bị cắn rứt lương tâm về việc vi phạm các quy tắc và chuẩn mực mà nó được coi như là xung đột với các lợi ích trước mắt của Mỹ. Trong khi hạn chế một số di chuyển của mọi người để ngăn chặn sự lây lan của virus là một chuyện; ngăn chận xuất khẩu các sản phẩm thiết yếu liên quan đến COVID là một vấn đề hoàn toàn khác.
Hơn nữa, nhờ một yêu cầu đầy can đảm về tự do thông tin ở Nam Phi và các rò rỉ khác đã được xác nhận, giờ đây chúng ta biết rằng các đại doanh nghiệp dược phòng đã chịu tính mức tính phí xuống thấp cho một số nước đang phát triển nhiều hơn là mức mà họ tính cho các nước phát triển. Một số doanh nghiệp cũng nhấn mạnh rằng, phần lớn sản phẩm của họ được xuất khẩu sang châu Âu từ các thị trường mới trỗi dậy, nơi mà các dược phẩm này đang được sản xuất, mặc dù dân chúng của chính những quốc gia đó đang tuyệt vọng về thuốc men.
Tệ hơn nữa, trong khi chính phủ các nước đang phát triển phải chịu các nghĩa vụ hợp đồng nghiêm ngặt, chính các doanh nghiệp đã tránh được ngay cả yêu cầu tối thiểu để cung cấp nguồn cung cấp mà họ đã hứa một cách kịp thời. Và họ khăng khăng giữ bí mật, vì những lý do hiện nay đã rõ ràng, ngay cả trong trường hợp điều đó có nghĩa là vi phạm về luật minh bạch của một quốc gia. Do đó, nhiều chính phủ các nước đang phát triển đứng trước sự lựa chọn giữa việc cứu mạng sống người dân của họ và bảo tồn các giá trị dân chủ. Như trong một sự thỏa hiệp, ít nhất một quốc gia đã chọn đến Nga để có vắc-xin. Đối với những thoả hiệp khác , Trung Quốc là nguồn duy nhất có thể.
Bất kỳ phương cách hợp lý nào cũng phải bắt đầu bằng việc thừa nhận rằng, việc kiểm soát đại dịch là vì lợi ích của mọi người. Với việc bất lực rõ ràng của các nước giàu hùng mạnh để giữ lời cam kết trong một cuộc khủng hoảng, giải pháp hợp lý là đảm bảo năng lực sản xuất các sản phẩm cho đại dịch ở khắp mọi nơi và loại bỏ những trở ngại có thể thấy trước đối với các quốc gia làm như vậy. Điều đó có nghĩa là đồng ý về ngoại lệ thuộc luật tác quyền trí tuệ và thiết lập các hình phạt nghiêm khắc đối với bất kỳ doanh nghiệp dược phòng nào họ can thiệp sai lạc vào việc sử dụng luật tác quyền trí tuệ được chỉ định của một doanh nghiệp khác, kể cả trong trường hợp sản xuất đang được xuất khẩu sang các nước thứ ba trong các nước đang phát triển.
Để chận đứng các mối đe dọa trong tương lai, một số công nghệ liên quan nên được chuyển giao ngay từ bây giờ và các chính phủ và doanh nghiệp phải cam kết tạo điều kiện thuận lợi cho bất kỳ việc chuyển giao bổ sung nào mà nó có thể làm cần thiết cho mầm bệnh trong tương lai. Các chính phủ nên có các công cụ và thẩm quyền pháp lý để buộc hoặc khiến các doanh nghiệp trong phạm vi quyền hạn của mình để chia sẻ công nghệ đó và các nước đang phát triển nên có quyền kiện nếu điều đó không xảy ra. Điều đó đang được đề cập, các cơ chế chấp pháp trong toàn cầu còn yếu và chúng ta đã thấy trong trận đại dịch COVID-19, sự vi phạm các quy tắc và chuẩn mực quốc tế của các quốc gia ở Bắc bán cầu – không có hậu quả. Đó là lý do tại sao việc có năng lực sản xuất và phát triển thuốc ở Nam bán cầu là rất quan trọng.
Chúng ta cũng không thể tin tưởng nơi các nền kinh tế tiên tiến cung cấp việc tài trợ khẩn cấp khi tình hình đòi hỏi. Trong các cuộc đàm phán hiện tại, ngay cả khi khiến họ đưa ra các lời cam kết tiên khời là khó khăn và không muốn.
Một lần nữa, để chận đứng các mối đe dọa trong tương lai, chúng ta nên huy động các quỷ cần thiết ngay bây giờ và thiết lập các quy tắc rõ ràng để cung cấp chúng. Ngay cả khi một số chính phủ không có khả năng cung cấp tiền ngay lập tức – thế giới không nên mong đợi gì từ đảng Cộng hòa trong Quốc hội Hoa Kỳ – vẫn có thể tạo ra một thỏa thuận ràng buộc để cung cấp tiền thông qua các kênh đa phương như các ngân hàng phát triển và Quỹ Tiền tệ Quốc tế.
Có một vấn đề trao đổi ở đây. Vì việc kiểm soát bất kỳ mầm bệnh nào trong tương lai sẽ yêu cầu có dữ liệu, chúng ta cần tất cả các quốc gia cam kết cùng chia sẻ dữ liệu. Nhưng trong cuộc khủng hoảng COVID-19, Nam Phi đã bị trừng phạt một cách đích đáng khi xác định được một biến thể mới của virus: các quốc gia khác đã phản ứng bằng cách áp đặt các hạn chế du lịch đối với việc này, mặc dù không rõ biến thể này bắt nguồn từ đâu hoặc liệu nó có phổ biến hơn ở những nơi khác hay không. Diễn biến này đặt ra một tiền lệ mang thảm họa tiềm tàng cho trận đại dịch tiếp theo. Các quốc gia cần có động lực khích lệ cho sự cởi mở; đảm bảo việc thâm nhập về công nghệ và tài trợ khẩn cấp là cần thiết cho mục tiêu này.
Với COVID-19, chúng ta dành ưu tiên cho lợi nhuận của các doanh nghiệp dược phòng hơn là cuộc sống và hạnh phúc của dân chúng ở các nước đang phát triển. Đó là chuyện vô đạo đức, đáng xấu hổ và phản tác dụng. Cho đến khi nào mà mầm bệnh gây được mủ ở bất cứ nơi đâu, sẽ có nguy cơ xảy ra các đột biến mới đầy nguy hiểm mà nó đe dọa tất cả mọi người. Và với việc Mỹ và các đồng minh châu Âu đang chiến đấu trong một trận chiến giành thiện cảm và thu phục trên khắp thế giới đang phát triển, họ đã tự bắn vào chân mình và phơi bày những điểm yếu của nền dân chủ của chính mình. Khắp nơi trên thế giới thấy là đại doanh nghiệp dược phòng buộc các chính phủ đóng trong một khuôn khổ đến mức mà họ sẽ đặt lợi ích riêng lên trên an ninh của chính họ.
Chúng ta phải tạo tiền đề cho một đối sách công bằng, toàn diện và hợp lý hơn cho tương lai. Đối mặt với nhiệm vụ cấp bách đó, các cuộc họp của Liên Hiệp Quốc vào tháng trước đã không đạt được những gì cần thiết.
***
Joseph E. Stiglitz đoạt giải Nobel kinh té, Giáo sư Đại học Columbia, Cựu kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới (1997-2000), Chủ tịch Hội đồng Cố vấn Kinh tế của Tổng thống Hoa Kỳ và đồng chủ tịch Ủy ban Cấp cao về Giá Carbon, Đồng Chủ tịch của Ủy ban độc lập về cải cách thuế doanh nghiệp quốc tế và là tác giả chính của Đánh giá khí hậu IPCC năm 1995.