Joseph E. Stiglitz
Đỗ Kim Thêm dịch

Nguồn ảnh: NICHOLAS KAMM/AFP via Getty Images
Không ai lập luận rằng các nhà hoạch định chính sách không nên nghĩ về các thế hệ tương lai. Nhưng thay vì tập trung một cách hạn hẹp vào vấn đề nợ tài chính, chúng ta nên xem xét loại thế giới nào chúng ta đang để lại cho con cháu của chúng ta, và những chính sách và cam kết tài chính hiện tại nào sẽ phục vụ tốt hơn cho các lợi ích của họ.
Giới bảo thủ thường gây lo âu ồn ào về gánh nặng nợ nần mà chúng ta đang truyền lại cho con cái chúng ta. Lập luận đạo đức này được trình bày khá nổi bật qua sự từ chối ủng hộ của các đảng viên Cộng hòa thuộc Quốc hội trong việc tăng mức trần nợ thường xuyên của Hoa Kỳ. Đảng Cộng hòa cảm thấy có trách nhiệm giảm chi tiêu đến mức sẵn sàng để giữ nền kinh tế toàn cầu làm con tin và chấp nhận nguy cơ gây thiệt hại lâu dài cho thanh danh của Mỹ.
Không ai lập luận rằng chúng ta không nên nghĩ về các thế hệ tương lai. Vấn đề đích thực là những chính sách và cam kết tài chính hiện tại nào sẽ phục vụ tốt hơn cho các lợi ích của con cháu chúng ta. Nhìn từ quan điểm này, điều rõ ràng là chính đảng Cộng hòa đang thể hiện sự coi thường đầy liều lĩnh đối với các hậu quả trong các hành động của họ.
Bất cứ ai có niềm tin về kinh tế đều biết rằng người ta phải luôn nhìn vào cả hai mặt của bảng cân đối. Điều thực sự quan trọng là sự khác biệt giữa phần tài sản và phần nợ phải trả. Nếu nợ tăng nhưng tài sản thậm chí còn tăng nhiều hơn, đất nước sẽ tốt đẹp hơn và các thế hệ tương lai cũng sẽ tốt hơn như vậy. Điều này đúng cho dù người ta có đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng, giáo dục, nghiên cứu hay công nghệ không. Nhưng thậm chí còn quan trọng hơn là vốn tự nhiên: giá trị của môi trường, nước, không khí và đất đai của chúng ta. Nếu không khí và nước của chúng ta bị ô nhiễm và đất của chúng ta bị ô nhiễm, chúng ta đang giao lại một gánh nặng lớn lao hơn cho con cái chúng ta.
Gánh nợ tài chính chỉ là thứ chúng ta mang nợ lẩn nhau. Đó là vấn đề giấy tờ mà chúng ta có thể được pha trộn nhau để điều chỉnh các yêu sách về hàng hóa và dịch vụ. Nếu chúng ta vỡ nợ, danh tiếng của chúng ta sẽ bị hoen ố, nhưng vốn về mặt vật chất, con người và tự nhiên của chúng ta sẽ không thay đổi. Các trái chủ sẽ thấy mình nghèo hơn là họ nghĩ, và một số người đóng thuế có thể sẽ giàu hơn nếu khoản nợ được trả, nhưng „sự thịnh vượng“ trong tổng thể của chúng ta sẽ không thay đổi.
„Món nợ về môi trường“ thì khác. Đó là một gánh nặng không thể loại bỏ bằng nét bút của một thẩm phán chuyên về phá sản. Thiệt hại gây ra ngày hôm nay có thể mất nhiều thập niên để sửa chữa và đòi hỏi phải chi tiêu số tiền có thể được sử dụng để làm giàu cho đất nước. Tương tự như vậy, chi tiêu khôn ngoan để bảo vệ và phục hồi môi trường – như các đầu tư để giảm lượng khí thải phát ra với hiệu ứng nhà kính – sẽ giúp các thế hệ tương lai trở nên tốt hơn ngay cả khi việc chi này được tài trợ bằng nợ.
Giả sử chúng ta có thể ước tính các mối lợi trực tiếp của các khoản đầu tư như vậy – ví dụ như xuất lượng tăng (hoặc giảm chi phí sửa chữa thiệt hại do việc cháy rừng, các trận bão và các biến cố khác do thời tiết khắc nghiệt) và giá trị của việc cải thiện sức khỏe và tuổi thọ từ việc giảm ô nhiễm không khí – tính về mặt tiền bạc. Chúng ta nên yêu cầu mức thu nào? Chính phủ Hoa Kỳ hiện đang cố gắng giải quyết vấn đề này, và bất cứ điều gì họ đưa ra sẽ có các hậu quả sâu rộng. Nếu chúng ta yêu cầu khoản thu cao (như chính quyền Trump đã làm khi đặt tiêu chuẩn ở mức 7% cho mỗi năm), sẽ có rất ít đầu tư trong việc bảo vệ khí hậu và sẽ nướng các thế hệ tương lai trong một thế giới nơi nhiệt độ đã tăng từ 3° C trở lên.
Đứng trước những hậu quả không thể tránh khỏi của việc bất động, đầu tư vào giảm thiểu khí hậu nên được coi là một loại bảo hiểm. Phần hưởng dụng là cao nhất khi tác động của biến đổi khí hậu là bất lợi nhất và khi giá trị tính theo tiền bạc tiền đặc biệt là cao. Thu nhập theo yêu cầu của „đầu tư bảo hiểm“ phải thấp hơn lãi suất thực tế an toàn (đã điều chỉnh lạm phát). Tỷ lệ đó thực sự là số âm trong những năm gần đây; nhưng ngay cả khi nhìn trong dài hạn hơn nhiều, nó vẫn ở mức khoảng 1%, cộng hoặc trừ 0,5%. Do đó, „tỷ lệ chiết khấu“ thích hợp nên thấp hơn rõ rệt so với 7%, thậm chí thấp hơn mức 2.5-5% được sử dụng bởi chính quyền Obama, và thậm chí có thể là âm.
Để xem xét vấn đề từ một góc độ khác, chúng ta có thể hỏi tỷ lệ chiết khấu nào là cần thiết để đạt được mục tiêu được quốc tế đồng ý của việc hạn chế tình trạng nóng lên trong toàn cầu ở mức 1.5-2°C. Việc cho phép nhiệt độ tăng một cách thường xuyên vượt quá ngưỡng này đặt ra những rủi ro không thể chấp nhận được. Các vụ hỏa hoạn, bão, lũ lụt, hạn hán, sương giá và các thảm họa khác mà chúng ta đã phải chịu đựng chỉ là một cảnh thấy trước về những gì tương lai này sẽ nắm chắc. Các tính toán sử dụng chiết khấu cao – ngay cả chiết khấu được sử dụng bởi chính quyền Obama – sẽ không cho phép chúng ta đạt được mục tiêu 1.5°C.
Chúng ta cũng có thể xem vấn đề từ quan điểm của „các thế hệ tương lai“. Chúng ta đặt giá trị gì cho con cái của chúng ta? Quyền của họ là gì? Nếu chúng ta coi trọng họ nhiều như chúng ta coi trọng bản thân của chúng ta (và không có lý do đạo đức nào để không làm như vậy), chúng ta phải tính đến thiệt hại gây ra cho môi trường ngày nay sẽ ảnh hưởng đến hạnh phúc của họ. Vì rõ ràng là chúng ta đang sống vượt quá các giới hạn của hành tinh, chúng ta có nghĩa vụ đạo đức khẩn cấp để giảm tất cả các hình thức ô nhiễm.
Trẻ em và thanh thiếu niên trên khắp thế giới đang yêu cầu các nhà lãnh đạo ngày nay ban hành các chính sách cần thiết để bảo vệ tương lai của họ. Họ đang đòi hỏi đây là một quyền cơ bản, và ở một số nước kể cả Hoa Kỳ, nơi mà gần đây một thẩm phán liên bang ở Oregon đã quyết định cho phép một vụ kiện về khí hậu theo luật hiến pháp do 21 thanh niên Mỹ đệ trình có thể tiến hành và một vụ kiện tương tự đã được tiến hành chống lại tiểu bang Montana – trẻ em sẽ ra tòa để đấu tranh cho lợi ích của chúng. Chẳng lẽ các bậc trưởng thượng của họ cũng không phải làm như vậy hay sao?
***
Joseph E. Stiglitz, đoạt giải Nobel kinh tế và Giáo sư Đại học Columbia, là cựu kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới (1997-2000), chủ tịch Hội đồng Cố vấn Kinh tế của Tổng thống Hoa Kỳ và Đồng chủ tịch Ủy ban Cấp cao về Giá Carbon. Ông là thành viên của Ủy ban độc lập về cải cách thuế doanh nghiệp quốc tế và là tác giả chính của Đánh giá khí hậu IPCC năm 1995.