Niall Ferguson
Đỗ Kim Thêm dịch

Dập lửa bằng cách châm xăng? Photographer: Fadel Senna/AFP/Getty Images
Hầu hết các cuộc xung đột kết thúc một cách nhanh chóng, nhưng lần này ngày càng có vẻ không nhanh như vậy. Hậu quả có thể bao gồm từ tình trạng vừa lạm phát vừa trì trệ trong toàn cầu cho đến Thế chiến thứ ba.
Hãy xem kịch bản xấu nhất.
Trước đây, ở chuyên mục này, tôi đã lập luận là tình hình toàn cầu hiện nay gần giống với những năm 1970 hơn bất kỳ giai đoạn gần đây nào khác. Chúng ta đang ở trong một thời giống như cuộc chiến tranh lạnh mới. Chúng ta vốn dĩ đã có vấn đề lạm phát. Cuộc chiến ở Ukraine giống như cuộc tấn công của các quốc gia Ả Rập vào Israel năm 1973 hoặc cuộc xâm lược Afghanistan của Liên Xô vào năm 1979. Tác động kinh tế của cuộc chiến đối với các giá cả về năng lượng và thực phẩm đang tạo ra nguy cơ vừa lạm phát vừa trì trệ
Nhưng giả sử đó tình hình không phải là năm 1979 mà là năm 1939, như sử gia Sean McMeekin lập luận? Tất nhiên, vị thế của Ukraine tốt hơn nhiều so với Ba Lan năm 1939. Các vũ khí của phương Tây đang đưa tới Ukraine; các vũ khí này đã không đến Ba Lan sau cuộc xâm lược của Đức Quốc xã. Ukraine chỉ phải đối mặt với mối đe dọa từ Nga; Ba Lan bị chia cắt giữa Hitler và Stalin.
Mặt khác, nếu người ta nghĩ về Thế chiến thứ hai như một tập hợp của nhiều cuộc chiến, sự tương đồng bắt đầu có vẻ hợp lý hơn. Hoa Kỳ và các đồng minh phải dự tính không chỉ một mà là ba cuộc khủng hoảng địa chính trị, tất cả đều có thể xảy ra nhanh liên tiếp, giống như cuộc chiến ở Đông Âu đã diễn ra trước cuộc chiến của Nhật Bản chống Trung Quốc, và tiếp theo là cuộc chiến của Hitler ở Tây Âu vào năm 1940, và cuộc chiến của Nhật Bản chống Hoa Kỳ và các đế chế châu Âu ở châu Á vào năm 1941. Nếu Trung Quốc phát động một cuộc xâm lược Đài Loan vào năm tới, và chiến tranh nổ ra giữa Iran và các kẻ thù của họ trong khu vực ngày càng liên kết – các quốc gia Ả Rập và Israel – thì chúng ta có thể phải bắt đầu nói về Thế chiến thừ ba, thay vì chỉ là Chiến tranh Lạnh thứ hai.
Bạn sẽ cảm thấy thế nào nếu nghĩ một cách nghiêm túc rằng Thế chiến thứ ba đang đến gần? Khi còn là một thiếu niên, tôi say sưa đọc bộ ba tác phẩm của Sartre nói về trí thức Pháp vào trước khi và ngay trong lúc bùng nổ của Thế chiến thứ hai, tập sách đầu tiên trong bộ này là „Thời đại của lý trí“. Tôi nhớ mình đã bị ám ảnh bởi cảm giác lo lắng về cuộc sống bao vây các nhân vật của Sarte. (Trong một phép ẩn dụ truyền đạt một cách dể nhớ trào lưu hư vô tại Paris trước chiến tranh, suy nghĩ đầu tiên của nhân vật chính Mathieu khi biết rằng Marcelle, tình nhân của mình, đang mang thai là làm thế nào để phá thai.) Đó là mùa hè năm 1938, và sự diệt vong sắp xảy ra bao trùm lên mọi người.
Tôi đã không nghĩ về những cuốn sách này trong nhiều năm. Các sách này chỉ trở lại với tôi sau cuộc xâm lược Ukraine của Nga vào ngày 24/2 bởi vì tôi sự rùng mình nhận ra rằng cảm giác thảm họa đang đến gần mà không thể nào lay chuyển được. Ngay cả hiện nay, sau năm tuần chiến tranh đáng chú ý với thành công anh dũng của những người bảo vệ Ukraine chống lại quân xâm lược Nga, tôi vẫn không thể hoàn toàn thoát khỏi cảm giác khó chịu rằng đây chỉ là hành động mở đầu của một thảm kịch lớn hơn.
Lần cuối cùng tôi ở Kyiv là vào đầu tháng 9 năm ngoái, tôi đã đặt cược với Steven Pinkler, nhà tâm lý học Harvard. Tôi đánh cược rằng: „Vào cuối thập kỷ này, 31/12/2029, một cuộc chiến tranh thông thường hoặc hạt nhân sẽ cướp đi ít nhất một triệu sinh mạng.“ Tôi tha thiết hy vọng là thua cược. Nhưng cược của tôi đã và đang không phải là một nỗi sợ hãi phi lý. Khi tôi ngồi ở Kyiv, nghĩ về ý định có thể của Vladimir Putin và tình trạng dễ bị tổn thương của Ukraine, tôi có thể thấy chiến tranh sắp xảy ra. Và chiến tranh ở Ukraine có một thành tích được ghi nhận thực sự là đẫm máu.
Kể từ khi Pinker xuất bản cuốn sách “The Better Angels of Our Nature” vào năm 2012, Pinker và tôi đã tranh luận về việc liệu thế giới có trở nên yên bình hơn không – nói chính xác là liệu có một xu hướng đầy ý nghĩa cho chiến tranh trở nên ít xảy ra thường xuyên hơn và gây chết người hơn không. Dữ liệu mà Pinker sử dụng cho cuốn sách đó (trong chương 5 và 6) chắc chắn làm cho nó trông như vậy.
Pinker đưa ra lời tuyên bố theo hai cách. Thứ nhất, đã có một „nền hòa bình lâu dài“ giữa các cường quốc kể từ khoảng năm 1945, mà các tương phản rõ rệt với các thời đại xung đột giữa các cường quốc diễn ra trước đó. Thứ hai, cũng có một „nền hòa bình mới“ mà đặc trưng của nó là „sự suy giảm về số lượng trong cuộc chiến, các cuộc diệt chủng và khủng bố đã tiến hành phù hợp và bắt đầu kể từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh“.
Tóm lại, Pinker lập luận: „các sút giảm đáng kể về bạo lực đã diễn ra … gây ra bởi các điều kiện ý thức hệ, kinh tế và chính trị „. Bằng cách nửa đùa nửa thật, Pinker thậm chí còn mạo hiểm tiên đoán rằng: “khả năng một đợt bạo lực chủ yếu sẽ bùng nổ trong thập kỷ tới – một cuộc xung đột với 100.000 người chết trong một năm, hoặc một triệu ca tử vong nói chung – là 9,7 %.“ Rõ ràng, tôi tin rằng con số còn cao hơn thế.
Không thiếu các nhà khoa học chính trị chia sẻ quan điểm của Pinker rằng thế giới đã trở nên ít bạo lực hơn nhiều, và đặc biệt là ít bị ảnh hưởng cho cuộc chiến với quy mô lớn. Trong một cuốn sách do Viện Nghiên cứu Hòa bình Oslo xuất bản gần đây được Nils Petter Gleditsch biên tập, bài viết của Michael Spagat và Stijn van Weezel có tính toán đến số người chết trong trận chiến là trên 100.000 trong dân số thế giới, tác giả sử dụng một bộ dữ liệu về cả hai cuộc chiến giữa các nước và nội chiến kể từ năm 1816, và xác định một sự phá vỡ cấu trúc vào năm 1950, sau đó về cơ bản, thế giới trở nên bình yên hơn so với thế kỷ rưỡi trước.
Vấn đề với tất cả các khảo hướng như vậy (như Pinker thừa nhận) là đơn giản. Ngay cả khi điều này là đúng mà thế giới đã trở nên ít bị chịu đựng chiến tranh quy mô kể từ năm 1950, các số liệu thống kê không có đảm bảo nào là xu hướng này sẽ tiếp tục. Sự thật sâu xa và khó hiểu này lần đầu tiên được chỉ ra bởi một học giả người Anh sinh ra hơn 140 năm trước.
Lewis Fry Richardson được đào tạo như một nhà vật lý và dành phần lớn sự nghiệp của mình khi làm việc về khí tượng học. Nghiên cứu của ông về chiến tranh đã không được công nhận trong lúc sinh tiền (chức vụ học thuật cao nhất của ông là tại Paisley Technical College ở Scotland. Mãi cho đến năm 1960, bảy năm sau khi ông qua đời, mới tìm ra được một nhà xuất bản cho ra mắt hai tập sách của ông về xung đột: Arms and Insecurity” và “Statistics of Deadly Quarrels.”
Richardson định nghĩa một „cuộc cãi vã gây chết người“ là „bất kỳ cuộc cãi vã nào gây ra cái chết cho con người“, bao gồm không chỉ các cuộc chiến, mà còn là „giết người, cướp bóc, nổi loạn, nổi dậy“, nhưng không phải là cái chết gián tiếp do nạn đói và bệnh tật. Ông đã tường trình tất cả thương vong trong các cuộc cãi vã gây chết người trong một loại thuật tính đến cơ sở là 10, để tạo ra một loại mẩu tính của Richter của cuộc xung đột gây chết người (cách tính cho các cuộc động đất ND).
Trong bài phân tích của ông về tất cả các „cuộc cãi vã gây chết người“ giữa năm 1820 và 1950, các cuộc chiến trong thế giới là cuộc tranh cãi duy nhất ở cường độ 7 – có số người chết lên hàng chục triệu. Cuộc tranh cải chiếm 3/5 tổng số ca tử vong trong mẫu của ông.
Richardson đã cố gắng tìm các mẫu trong dữ liệu của mình cho cuộc xung đột gây chết người mà nó có thể làm sáng tỏ thời điểm và quy mô của các cuộc chiến. Có một xu hướng dài hạn nào đối với việc chiến tranh là ít hoặc nhiều hơn? Câu trả lời là không. Các dữ liệu chỉ ra rằng các cuộc chiến được phân phối ngẫu nhiên. Richardson nói: „Bộ sưu tập nói chung không cho thấy bất kỳ xu hướng nào hướng tới nhiều hơn, cũng không hướng tới ít hơn, những cuộc tranh cãi gây tử vong.“
Phát hiện này đã được nhân rộng bởi Pasquale Cirilo và Nassim Nicholas Taleb và gần đây nhất là Aaron Clauset (cũng trong sách Gleditsch). Đúng thế, thế giới ít bạo lực hơn từ sau Thế chiến thứ hai so với nửa đầu thế kỷ 20, hoặc trong thế kỷ 19. Nhưng, như Clauset nói, „một thời gian hòa bình lâu dài không nhất thiết là bằng chứng về khả năng thay đổi cho các cuộc đại chiến. … Xác suất của một cuộc đại chiến [như Thế chiến thứ hai] là không đổi. … Phải đến 100 năm sau, về mặt thống kê, người ta mới có thể phân biệt được một nền hòa bình lâu dài từ một sự biến động lớn nhưng ngẫu nhiên trong một tiến trình bình yên khác.
Tóm lại, vẫn còn quá sớm để nói là nếu „nền hòa bình lâu dài“ đánh dấu một sự thay đổi triệt để. Chúng ta sẽ không thể loại trừ Thế chiến thứ ba cho đến khi hòa bình được duy trì cho đến cuối thế kỷ này.
Một cách suy nghĩ khác mang nhiều lịch sử hơn về điều này chỉ đơn giản là nói rằng gọi thời đại chiến tranh lạnh là một „nền hòa bình lâu dài“ không quan tâm đến việc thế giới đã hơn một lần cận kề với một tai hoạ hạt nhân như thế nào. Chỉ vì Thế chiến thứ ba không bùng nổ, nên nói ví dụ là năm 1962 hoặc 1983 là một vấn đề may mắn hơn là do sự tiến bộ nhân loại. Trong một thế giới mà ít nhất hai quốc gia có đủ đầu đạn hạt nhân để tiêu diệt hầu hết nhân loại, hòa bình lâu dài sẽ chỉ kéo dài chừng nào các nhà lãnh đạo của các quốc gia đó từ chối khởi xướng một cuộc chiến hạt nhân.
Điều này đưa chúng ta trở lại cuộc xâm lược Ukraine của Nga. Vào ngày 22/3, tôi đã đề xuất rằng kết quả của cuộc chiến phụ thuộc vào câu trả lời cho bảy vấn đề. Bây giờ chúng ta hãy cập nhật các câu trả lời cho những vấn đề này.
1. Người Nga có thể chiếm Kyiv và Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy trong vòng hai, ba hoặc bốn tuần hay không bao giờ?
Câu trả lời có vẻ như „không bao giờ“.
Mặc dù có thể là điện Kremlin chỉ tạm thời rút một số lực lượng của mình khỏi xung quanh Kyiv, nhưng hiện tại có rất ít nghi ngờ rằng đã có sự thay đổi kế hoạch. Trong một buổi tường trình vào ngày 25/3, các tướng lĩnh Nga tuyên bố rằng họ chưa bao giờ có ý định chiếm Kiev hoặc Kharkiv, và các cuộc tấn công ở đó chỉ nhằm mục đích đánh lạc hướng và làm suy yếu lực lượng Ukraine. Mục tiêu thực sự của Nga là đã và đang giành quyền kiểm soát hoàn toàn khu vực Donbass ở phía đông đất nước.
Điều đó nghe có vẻ như một sự hợp lý hóa những tổn thất rất nặng nề mà người Nga đã phải chịu kể từ khi phát động cuộc xâm lược. Dù bằng cách nào, hiện nay, chúng ta sẽ xem liệu quân đội của Putin có thể đạt được mục tiêu hạn chế hơn này là bao vây các lực lượng Ukraine ở Donbass và có lẽ đảm bảo một „cây cầu tiếp vận bằng bộ binh“ từ Nga đến Crimea dọc theo bờ biển Azov không. Tất cả những gì có thể nói chắc chắn là đây sẽ là một tiến trình tương đối chậm và đẫm máu, như trận chiến tàn bạo ở Mariupol đã cho thấy rõ.
2. Các biện pháp trừng phạt liệu có dẫn đến sự suy giảm kinh tế nghiêm trọng ở Nga đến mức Putin không thể đạt được chiến thắng?
Nền kinh tế Nga chắc chắn đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi các hạn chế của phương Tây, nhưng tôi vẫn giữ quan điểm rằng nó đã không bị ảnh hưởng đủ mạnh để chấm dứt chiến tranh. Chừng nào mà chính phủ Đức còn chống lại lệnh cấm vận đối với việc xuất khẩu dầu của Nga, Putin vẫn kiếm đủ ngoại tệ mạnh để duy trì nền kinh tế chiến tranh của mình. Bằng chứng thuyết phục nhất cho điều này là sự phục hồi đáng chú ý của tỷ giá hối đoái của đồng rúp với đồng đô la. Trước chiến tranh, một đô la đã mua 81 rúp. Sau cuộc xâm lược, tỷ giá hối đoái đã giảm xuống còn 140. Hôm thứ Năm, nó đã trở lại ở mức 81, chủ yếu phản ánh sự kết hợp của các khoản thanh toán với nước ngoài cho dầu khí và kiểm soát vốn của Nga.

3. Liệu sự kết hợp giữa khủng hoảng kinh tế và quân sự và dẫn đến một cuộc đảo chính trong cung điện chống lại Putin không?
Như tôi đã lập luận từ hai tuần trước, chính quyền Biden đang đặt cược vào sự thay đổi chế độ ở Moscow. Điều đó đã trở nên rõ ràng kể từ khi tôi trình bày. Chính phủ Mỹ không chỉ coi Putin là tội phạm chiến tranh và khởi xướng các thủ tục tố tụng để truy tố các thủ phạm Nga phạm tội ác chiến tranh ở Ukraine; vào cuối bài phát biểu tại Warsaw vào Chủ nhật tuần trước, Joe Biden đã thốt ra chín từ cho các sách sử: „Vì Chúa, người đàn ông này không thể tiếp tục cấm quyền.“
Một số người đã cho đây là một sự bổ sung bất thường trong phần kết luận. Các quan chức Mỹ gần như tìm cách đính chánh ngay. Nhưng hãy đọc toàn văn bài phát biểu, trong đó lặp đi lặp lại việc ám chỉ đến sự sụp đổ của Bức tường Berlin và Liên Xô, đặt ra một trận chiến mới trong thời đại của chúng ta „giữa dân chủ và chuyên chế, giữa tự do và đàn áp, giữa một trật tự dựa trên luật lệ và một trật tự bị chi phối bởi bạo lực.“ Trong tâm trí của tôi, không có nghi ngờ gì việc Hoa Kỳ (và ít nhất là một số đồng minh châu Âu) đang nhắm đến việc loại bỏ Putin.
4. Liệu nguy cơ sụp đổ có dẫn Putin đến các biện pháp tuyệt vọng (ví dụ như thực hiện mối đe dọa hạt nhân)?
Hiện nay, đây là vấn đề quan trọng. Biden và các cố vấn của ông dường như rất tự tin rằng sự kết hợp giữa tiến trình làm tiêu hao ở Ukraine và các biện pháp trừng phạt đối với Nga sẽ mang lại một cuộc khủng hoảng chính trị ở Moscow có thể sánh với cuộc khủng hoảng đã giải thể Liên Xô 31 năm trước. Nhưng Putin không giống như những kẻ chuyên quyền ở Trung Đông, giới đã mất quyền trong Chiến tranh Iraq và Mùa xuân Ả Rập. Putin đã sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt, bao gồm kho vũ khí đầu đạn hạt nhân lớn nhất thế giới, cũng như vũ khí hóa học và không nghi ngờ gì nữa là các vũ khí sinh học.
Những người tuyên bố chiến thắng của Ukraine một cách vội vàng dường như quên rằng Nga gặp phải những điều tồi tệ hơn trong binh pháp thông thường, xác suất Putin sử dụng vũ khí hóa học hoặc vũ khí hạt nhân loại nhỏ càng tăng cao. Hãy nhớ rằng: Mục tiêu của Putin từ năm 2014 là ngăn chặn Ukraine trở thành một nền dân chủ ổn định hướng theo phương Tây được tích hợp vào các định chế phương Tây như Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) và Liên minh châu Âu (EU). Với mỗi ngày xảy ra việc chết chóc, hủy diệt và di tản, Putin có thể tin đang đạt được mục tiêu: một ngôi nhà mồ hoang hơn là một Ukraine tự do.
Quan trọng hơn, nếu Putin tin rằng Hoa Kỳ và các đồng minh có mục đích lật đổ Putin – và nếu Ukraine tiếp tục tấn công các mục tiêu bên trong nước Nga, như lần đầu tiên vào tối thứ Năm – Putin dường như có nhiều khả năng để leo thang xung đột hơn là ngoan ngoãn từ chức tổng thống Nga.
Những người bác bỏ nguy cơ của Thế chiến thứ ba xem thường thực tế khắc nghiệt này. Trong Chiến tranh Lạnh, chính khối NATO không thể hy vọng giành chiến thắng trong một cuộc chiến tranh thông thường với Liên Xô. Đó là lý do tại sao khối NATO có vũ khí hạt nhân chiến thuật sẵn sàng để khởi động chống lại Hồng quân nếu Hồng quân tiến vào Tây Âu. Ngày nay, Nga sẽ không có cơ hội trong một cuộc chiến tranh thông thường với khối NATO. Đó là lý do tại sao Putin có các vũ khí hạt nhân chiến thuật sẵn sàng để đáp trả một cuộc tấn công của phương Tây vào Nga. Và điện Kremlin đã đưa ra lập luận rằng một cuộc tấn công như vậy đang được tiến hành.
Ngày 21/2, Nikolai Patrushev, Thư ký Hội đồng An ninh Nga, tuyên bố rằng „trong các tài liệu giáo điều của mình, Mỹ gọi Nga là kẻ thù“ và mục tiêu của họ „không gì khác ngoài sự sụp đổ của Liên bang Nga“. Vào ngày 16/ 3, Putin minh định rằng phương Tây đang tiến hành „một cuộc chiến tranh bằng các phương tiện thông tin, chính trị và kinh tế, “ có „bản chất toàn diện và trắng trợn“.
„Một cuộc chiến hỗn hợp thực sự, một cuộc chiến toàn diện đã được khai chiến đối với chúng tôi“, Ngoại trưởng Nga Sergei Lavrov tuyên bố hôm thứ Hai. Mục tiêu của nó là „phá hủy, phá vỡ, tiêu diệt, bóp nghẹt nền kinh tế Nga và Nga trong toàn diện“.
5. Liệu người Trung Quốc có giữ cho Putin nổi lên nhưng với điều kiện là Putin đồng ý về một nền hòa bình thỏa hiệp mà họ làm trung gian?
Hiện nay là khá rõ ràng (đặc biệt là từ thông điệp trong nước thông qua các phương tiện truyền thông do nhà nước kiểm soát) rằng chính phủ Trung Quốc sẽ đứng về phía Nga, nhưng không đến mức sẽ kích hoạt các biện pháp trừng phạt thứ cấp của Mỹ đối với các định chế Trung Quốc đang làm ăn với các doanh nghiệp Nga đi ngược lại với các biện pháp trừng phạt của chúng ta. Tôi không còn mong đợi là Trung Quốc đóng vai trò trung gian hòa giải. Hội nghị thượng đỉnh ảo lạnh lùng hôm thứ Sáu giữa các nhà lãnh đạo Liên minh châu Âu và Trung Quốc đã xác nhận điều đó.
6. Liệu tình trạng rối loạn do việc thiếu tập trung của chúng ta bắt đầu có hiệu ứng trước bất kỳ điều nào không?
Thật thu hút khi nói rằng nó đã bắt đầu sau chu kỳ tin tức bốn tuần thông thường vào thời điểm Will Smith tát Chris Rock tại Lễ trao giải Oscar cuối tuần trước. Một câu trả lời mang nhiều sắc thái hơn là, trong những tháng tới, sự ủng hộ của công chúng phương Tây đối với chính nghĩa của Ukraine sẽ được kiểm nghiệm do việc tăng giá thực phẩm và nhiên liệu liên tục, kết hợp với nhận thức sai lầm rằng Ukraine đang thắng trong cuộc chiến, trái ngược với việc không thua .
7. Thiệt hại song song trong chiến cuộc là gì?
Thế giới có một vấn đề lạm phát đang tồi tệ và nghiêm trọng, với việc các ngân hàng trung ương hỗ trợ nghiêm túc các khúc tuyến lạm phát (khi không tăng lãi suất với tốc độ đủ nhanh để theo kịp đà lạm phát. ND)
Cuộc chiến này càng kéo dài, mối đe dọa lạm phát và trì trệ càng nghiêm trọng (lạm phát cao nhưng với tăng trưởng kinh tế thấp, không có hoặc âm). Vấn đề này sẽ nghiêm trọng hơn ở các quốc gia phụ thuộc nặng nề vào Ukraine và Nga không chỉ về năng lượng và ngũ cốc, mà còn đối với phân bón, các giá cả đã tăng gần gấp đôi là do chiến tranh. Bất cứ ai tin rằng điều này sẽ không có hậu quả bất lợi về xã hội và chính trị đều không biết lịch sử.
„Vậy điều gì sẽ xảy ra tiếp theo?“ là vấn đề mà tôi được hỏi nhiều lần. Để đi đến điểm mấu chốt đó, chúng ta hãy quay trở lại với khoa học chính trị, bắt đầu bằng trường hợp lạc quan (mà trong tâm trí tôi cho là tương đương với „những năm 1970, không phải những năm 1940“). Hầu hết các cuộc chiến đều ngắn ngủi. Theo một bài báo năm 1996 của D. Scott Bennett và Allan C. Stam III, cuộc chiến trung bình giữa năm 1816 và 1985 chỉ kéo dài 15 tháng. Hơn một nửa các cuộc chiến trong mẫu của họ (60%) kéo dài ít hơn sáu tháng và gần một phần tư (23%) ít hơn hai tháng. Kéo dài hơn hai năm là ít hơn một phần tư (19%). Do đó, có một cơ hội có thể chấp nhận được là cuộc chiến ở Ukraine sẽ kết thúc tương đối sớm.

Nếu cho rằng Nga đang chiến đấu ngay cả để đạt được một chiến thắng hạn chế ở Ukraine, Putin dường như không leo thang theo cách có thể đưa ông vào một cuộc xung đột rộng lớn hơn. Vì vậy, một lệnh ngừng bắn có thể xảy ra trong năm tuần – vào đầu tháng 5 – bởi vì đến lúc đó người Nga sẽ đạt được sự bao vây của họ đối với các lực lượng Ukraine ở Donbass hoặc họ sẽ thất bại. Dù bằng cách nào, họ sẽ cần phải cho binh lính của họ nghỉ ngơi. Tiến trình tòng quân và các thay thế về huấn luyện đang được tiến hành, nhưng phải mất nhiều tháng trước khi các binh sỉ mới sẳn sàng ứng chiến.
Tuy nhiên, hòa bình sẽ mất nhiều thời gian hơn để hình dung ra. Với sự kháng chiến của Ukraine xảy ra hàng ngày, các lập trường dường như đã trở nên cứng rắn hơn, đặc biệt là về các vấn đề lãnh thổ (tình trạng tương lai không chỉ của Donetsk và Luhansk mà còn Crimea). Tôi cũng có thể tưởng tượng các lệnh ngừng bắn không được tuân thủ, các nỗ lực để chiếm thế thượng phong dẫn đến những trận chiến ngắn hạn – và tất cả điều này diễn ra lâu hơn cho bất kỳ ai dự đoán. Điều đó cũng có nghĩa là các biện pháp trừng phạt đối với Nga sẽ vẫn tồn tại, ngay cả khi không trở nên cứng rắn hơn.
Kết luận đó phù hợp với một tài liệu quan trọng bàn về thời gian kéo dài cuộc chiến. Branislav Slantchev lập luận vào năm 2004: „Khi các khả năng tác chiến có thể quan sát được gần tương đương, các động lực để làm trì hoãn thỏa thuận là mạnh nhất và các cuộc chiến sẽ có xu hướng kéo dài hơn“. Trong một bài báo quan trọng năm 2011, Scott Wolford, Dan Reiter và Clifford J. Carrubba đã đề xuất ba quy tắc có phần phản trực giác
1. Việc giải quyết tình trạng bất trắc thông qua giao chiến có thể dẫn đến sự tiếp tục, hơn là phải chấm dứt chiến tranh.
2. Các cuộc chiến … ít hơn, không nhiều hơn, có khả năng kết thúc lâu hơn chúng càng kéo dài.
3. Các mục tiêu chiến tranh có thể tăng lên, thay vì giảm, theo thời gian để đáp ứng với việc giải quyết tình trạng bất trắc.
Điều gì có thể ngăn chặn một „hòa bình không phải là hòa bình“ kéo dài như vậy, mà nó sẽ quá dùng bạo lực để đủ điều kiện cho một cuộc xung đột bị đóng băng như Nga đã làm ở Moldova và Georgia? Có lẽ Biden sẽ gặp may và Putin sẽ bị lật đổ bởi các thành viên bất mãn của giới tinh hoa chính trị Nga và những người dân Moscow đói khát. Nhưng tôi không đặt cược về vấn đề này. (Trong mọi trường hợp, một cuộc cách mạng Nga sẽ tốt hơn cho chúng ta hay cho Trung Quốc? Sự sụp đổ của Saddam Hussein sẽ tốt hơn cho chúng ta hay cho Iran?)
Sự sụp đổ của Putin chắc chắn sẽ làm tăng khả năng hòa bình tong lâu dài ở Ukraine. Alex Weisiger của Đại học Pennsylvania đã lập luận rằng „đặc biệt là ở các nước ít dân chủ hơn … thay thế nhà lãnh đạo hiện tại có thể là một phần của tiến trình mà những bài học từ chiến trường được chuyển thành việc thay đổi chính sách. Thay đổi giới lãnh đạo được kết nối với việc giải quyết [của các cuộc chiến], và … việc giao quyền cho giới lãnh đạo không liên hệ chiến cuộc, những người sẵn sàng đưa ra những nhượng bộ cần thiết để kết thúc cuộc chiến, đặc biệt là có khả năng xảy ra khi chiến tranh bắt đầu diễn ra tồi tệ.
Thật là điều tuyệt vời! Vấn đề là „thay đổi giới lãnh đạo“ như vậy là ngoại lệ, không phải là quy tắc. Trong tổng số 355 nhà lãnh đạo trong một loạt mẩu của các cuộc chiến tranh giữa các quốc gia, theo Sarah Croco của Đại học Maryland, chỉ có 96 người được thay thế trước khi cuộc chiến kết thúc, trong đó 51 người được kế nhiệm bởi các nhà lãnh đạo „vô tội“, tức là những người không tham gia chính phủ khi bắt đầu cuộc chiến. Nói cách khác, hầu hết các cuộc chiến đều kết thúc bởi cùng một nhà lãnh đạo bắt đầu các cuộc chiến. Thay đổi chế độ xảy ra trong chưa đầy một phần tư các cuộc chiến, và các nhà lãnh đạo “vô tội” chỉ xuất hiện trong 14% các cuộc xung đột.
Tôi hy vọng sẽ thua cược với Steven Pinker. Tôi hy vọng cuộc chiến ở Ukraine sẽ sớm kết thúc. Tôi hy vọng Putin sẽ sớm ra đi. Tôi hy vọng sẽ không có hàng loạt cuộc xung đột, mà cuộc chiến ở Đông Âu được theo sau bởi cuộc chiến ở Trung Đông và Đông Á. Trên hết, tôi hy vọng sẽ không có chuyện sử dụng vũ khí hạt nhân ở bất kỳ điểm nóng xung đột nào trên thế giới.
Nhưng có những lý do chính đáng để không quá lạc quan. Lịch sử và khoa học chính trị chỉ ra một cuộc xung đột kéo dài ở Ukraine, ngay cả khi một lệnh ngừng bắn được đồng ý vào một thời điểm nào đó vào tháng tới. Chúng làm cho sự sụp đổ của Putin trông giống như một kịch bản có xác suất thấp. Chúng làm cho một giai đoạn lạm phát và trì trệ toàn cầu và bất ổn trở thành một kịch bản có xác suất cao. Và chúng nhắc cho chúng ta rằng chiến tranh hạt nhân không được đảm bảo không bao giờ xảy ra.
Rõ ràng gọi Putin là tội phạm chiến tranh và việc tướt quyền có nghĩa là làm tăng nguy cơ vũ khí hóa học hoặc hạt nhân được sử dụng ở Ukraine. Và nếu vũ khí hạt nhân được sử dụng một lần trong thế kỷ 21, tôi sợ chúng sẽ được sử dụng lại. Một hậu quả rõ ràng của cuộc chiến ở Ukraine là nhiều quốc gia trên thế giới sẽ tăng cường việc theo đuổi vũ khí hạt nhân. Vì không có gì minh họa rõ ràng hơn giá trị của việc này là số phận của Ukraine, nó đã làm cho các quốc gia đã từ bỏ vũ khí hạt nhân để đổi lấy những đảm bảo vô giá trị vào năm 1994. Thời đại không phổ biến vũ khí hạt nhân đã kết thúc.
Một lần nữa, tôi rất muốn thua cược này. Nhưng tôi phải nhắc bạn về vụ cược cuối cùng của Pinker. Năm 2002, nhà vật lý thiên văn Cambridge Martin Rees công khai đặt cược rằng „vào năm 2020, các khủng bố bằng sinh học hoặc các sai lầm về sinh học sẽ dẫn đến một triệu thương vong trong một biến cố duy nhất.“ Pinker đã đứng về phía bên kia của vụ cá cược vào năm 2017, lập luận rằng „những tiến bộ vật chất đã khiến nhân loại kiên cường hơn trước các mối đe dọa tự nhiên và nhân tạo: dịch bệnh bùng phát không trở thành đại dịch“.
Như tôi đã nói: Hãy xem xét kịch bản xấu nhất.
***
Niall Ferguson là Thành viên cao cấp của Milbank Family thuộc Học Viện Hoover Đại học Stanford, Bình luận gia của Bloomberg Opinion, Giáo sư Lịch sử tại các Đại học Harvard, New York và Oxford, Sáng lập viên và Giám đốc Điều hành Greenmantle LLC, Doanh nghiệp tư vấn có trụ sở tại New York. Cuốn sách mới nhất là: „Doom: The Politics of Disaster“
4 Gedanken zu “Bảy kịch bản tồi tệ nhất từ cuộc chiến ở Ukraine”