Đỗ Kim Thêm
Đế quốc Việt Nam và Hoàng đế Bảo Đại
Hai hôm sau, ngày 11 tháng 3 năm 1945, Nhật thành lập chính phủ Đế quốc Việt Nam do Hoàng đế Bảo Đại và Thủ tướng Trần Trọng Kim đứng đầu, đúng theo chính sách Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á mà Nhật đã đề ra từ trước.
Bảo Đại tuyên bố là, kể từ nay, chính phủ Việt Nam có chủ quyền ở ba Kỳ, độc lập, bãi bỏ các hiệp ước bảo hộ với Pháp và cùng hợp tác quốc tế để đạt được mục đích chung theo tinh thần tuyên ngôn Đại Đông Á của Nhật.
Ngày 7 tháng 4 năm 1945, Bảo Đại chuẩn y thành phần nội các đầu tiên do Trần Trọng Kim đề nghị. Ngày 17 tháng 4 năm 1945 Thủ tướng Trần Trọng Kim nhậm chức và ngày 12 tháng 5 Bảo Đại tuyên bố giải thể Viện Dân biểu Trung kỳ.
Về mặt pháp lý, đây là một sự kiện quan trọng để luật quốc tế công nhận Việt Nam là một quốc gia độc lập và có chủ quyền ra đời mà Hoàng Đế Bảo Đại và Thủ tướng Trần Trọng Kim là giới lãnh đạo đầu tiên.
Thực tế cho thấy là có những cáo buộc cho rằng Bảo Đại không có thực lực, khi quyền tự trị tài chính và điều động nhân sự cho đất nước đều do Nhật nắm giữ. Cũng như các chính phủ khác ở những vùng bị Nhật chiếm đóng, Bảo Đại có bù nhìn hay không, đó chỉ là một lối giải thích về bản lĩnh chính trị nhất thời của giới lãnh đạo, mà tình thế không cho phép có thể xảy ra khác hơn.
Về sau, các nước khác cùng hoàn cảnh như Việt Nam cũng thoát ra khỏi sự lệ thuộc của Nhật. Vấn đề là về mặt pháp lý, khi Việt Nam đã thành hình, thì Hồ Chí Minh không có căn bản để một lần nửa khai sinh cho Việt Nam và tự quyền tuyên bố giành độc lập, thực tế là Việt Minh cướp chính quyền trong tay của chính phủ Trần Trọng Kim, một bạo loạn thuộc về xáo trộn nội chính.
Đầu tiên của diễn biến là ngày 17 tháng 8. Tại Quảng trường Nhà hát lớn thành phố, Tổng hội Công chức của chính quyền Trần Trọng Kim tổ chức một cuộc biểu tình để ủng hộ chính phủ trong việc thu hồi chủ quyền.
Trong khí thế hân hoan, đoàn người biểu tình hát vang bài Tiếng Gọi Thanh Niên và hô to khẩu hiệu „Việt Nam độc lập muôn năm“ thì các thành viên của Việt Minh nhảy lên khán đài với súng ngắn trong tay và dồn các viên chức chính phủ vào một góc, hạ cờ Việt Nam xuống, trương cờ đỏ sao vàng lên và hô to „Ủng hộ Việt Minh“. Hỗn loạn cực độ làm cho ban tổ chức không thể tái lập trật tự.
Nhân dịp này, các cán bộ Việt Minh kêu gọi quần chúng ủng hộ để đánh đổ chính quyền tay sai, đấu tranh cho độc lập dân tộc, phân phát cờ đỏ cho dân chúng để đón quân giải phóng sắp ở chiến khu về. Sau đó, Việt Minh điều khiển hàng trăm người vào Bắc bộ phủ hô các khẩu hiệu đả đảo phát xít, hoan hô giải phóng, hô hào dân chúng đi chiếm các công sở.
Sáng ngày 18 tháng 8 Việt Minh chiếm nhà số nhà 101 Gambetta (nay là phố Trần Hưng Đạo) làm trụ sở cho Uỷ ban Khởi nghĩa Hà Nội làm việc.
Ngày 19 tháng 8, lúc 10 giờ rưỡi, Thanh niên Tự vệ, một tổ chức của Việt Minh tại Hà Nội, huy động được nhiều dân chúng đến Quảng trường Nhà hát lớn, xâm chiếm Phủ Khâm sai và bắt giữ Khâm sai Bắc kỳ Nguyễn Xuận Chử mà không gặp bất kỳ kháng cự nào.
Chiều tối 19 tháng 8, Việt Minh đạt được một thoả thuận với tướng Tsuchihashi, Tổng tư lệnh kiêm Toàn quyền Nhật, là phía Nhật sẽ không can thiệp vào các hoạt động của Việt Minh; đổi lại, Việt Minh sẽ không tấn công binh lính Nhật.
Tại Huế, tình hình yên tĩnht hơn, nhưng đại diện của Nhật yết kiến vua Bảo Đại và tỏ ý muốn can thiệp để vãn hồi trật tự để chống lại Việt Minh. Bảo Đại và Trần Trọng Kim không đồng ý. Lý do từ chối là Nhật đang đầu hàng Đồng minh và đang chờ giải giới, mà cũng có thể là khuynh hướng hiếu hoà của cả hai trong hoàn cảnh hỗn loạn.
Đó là một thuận lợi cho Việt Minh trước tình thế này. Nếu Nhật can thiệp quân sự, diễn biến của tình thế sẽ khác hẳn, vì thực lực của Việt Minh chỉ là trong giai đoạn phôi thai.
Không thể bảo vệ ngai vàng cho Bảo Đại và điều hành công việc nội chính, Trần Trong Kim không còn giải pháp nào khác hơn là xin từ chức. Đó cũng là một thuận lợi khác mà Việt Minh biết tận dụng bằng cách trong ngày 22 tháng 8 gây áp lực buộc vua Bảo Đại thoái vị.
Bảo Đại chấp nhận thoái vị vào ngày 25 tháng 8, trở thành công dân Vĩnh Thuỵ và tuyên bố “muốn được làm Dân một nước tự do, hơn làm Vua một nước bị trị.”
Buổi lể thoái vị kết thúc khi công dân Vĩnh Thụy trao ấn, kiếm cho Trần Huy Liệu, đại diện Việt Minh và được gắn huy chương. Đế quốc Việt Nam với triều đại Bảo Đại chấm dứt và Việt Minh nhận trách nhiệm lịch sử trong một khởi đầu đầy giông bảo
Nhìn lại biến chuyển này trong toàn cảnh, người hậu thế sẽ dễ nhận ra là Bảo Đại vẫn còn có những giải pháp tương ứng khả thi.
Khi Thủ tướng Trần Trọng Kim từ chức, Bảo Đại vẫn có thể tìm một chính khách khác bản lĩnh hơn để đảm nhiệm. Ngay cả việc mời Hồ Chí Minh hợp tác để thành lập một chính phủ mới trong một khuôn khổ khác hơn là một sách lược khả thi. Uy tín của hoàng triều vẫn còn vững vàng để Bảo Đại thi hành sách lược này trong khi Việt Minh không có ảnh hưởng tại miền Trung và miền Nam. Thí dụ điển hình là Bảo Đại kêu gọi thành lập chế độ Quân Chủ Lập Hiến mà nhiệm vụ cụ thể trong buổi giao thời là soạn hiến pháp và lập chính phủ lâm thời chủ trương đại đoàn kết dân tộc.
Việc Bảo Đại thoái vị, giải tán chinh phủ và triều đình, trao toàn quyền cho Việt Minh đang chưa có thực lực và thanh thế là một sai lầm nghiêm trọng về trách nhiệm chính trị và lịch sử. Đây là một món quà vô giá mà Bảo Đại tặng cho Việt Minh và làm thay đổi triệt để lịch sử Việt Nam cận đại.
Tình thế biến chuyển cực kỳ sôi động. Việt Minh nắm thời cơ tại miền Nam khi tổ chức biểu tình vào ngày 25 tháng 8 năm 1945 tại Sài Gòn và Uỷ Ban Hành Chánh Nam Bộ ra đời gồm có 9 Uỷ Viên trong đó Việt Minh chiếm 5 người và Trần văn Giàu tự xưng là Chủ tịch.
Có nhiều lý do để giải thích về sự thành công của Việt Minh, không phải chỉ vì chiếm đóng của Nhật lỏng lẻo, Nhật không can thiệp cho Đế Quốc Việt Nam, Bảo Đại và Trần Trọng Kim bất lực mà còn nhiều lý do khác.
Điển hình nhất là vì chính sách kinh tế Nhật phục vụ cho chiến tranh nên gây lạm pháp cao độ, chính sách nông nghiệp có nhiều sai lầm là lo thu mua thóc để xuất cảng nên gây ra nạn đói tràn ngập tại miền Bắc trong năm 1944 và 1945. Kết qủa thảm hại là trên hai triệu người chết đói và hàng trăm ngàn người nghèo có lý do để đi theo Việt Minh.
Tất nhiên, khi nhìn lại bối cảnh theo biên niên sử, ngày 11 tháng 3 năm 1945 là ngày Bảo Đại tuyên bố Việt Nam tuyên bố Độc lập, có nghĩa là, ngày chính thức được xem là chế độ thực dân Pháp cáo chung. Sự thật này phải đến trước ngày 19 tháng 8 năm 1945 và ngày 2 tháng 9 năm 1945. Các diễn biến sau này được lịch được sử gia Việt Minh gọi chung là Cách mạng tháng Tám đánh Pháp đuổi Nhật giành độc lập không thể xảy ra theo đúng như các diễn biến và sự thật của tiến trình lịch sử lập quốc. Đây là lý do đầy thuyết phục để giải thích mà không thể khác hơn.
Việt Minh hợp tác với OSS

Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp và Phái bộ OSS Ảnh Internet
Bối cảnh
Chỉ trong vòng năm tháng, từ tháng 3 cho đến tháng 8 năm 1945, khi Nhật đầu hàng Đồng minh, một sự kiện đáng ngạc nhiên là Việt Minh trở thành Đồng minh chính thức của OSS.
Cơ duyên cho sự hợp tác của hai phía không khởi động tại Côn Minh, thủ phủ của tỉnh Vân Nam, nơi OSS đặt bản doanh, vì ông Hồ không có tiếp xúc chính thức. Thực ra, ông gặp OSS trể hơn.
Từ lâu, ông có chú ý đến vai trò của Mỹ cho mục tiêu đấu tranh, bằng chứng là ngay từ đầu năm 1944, ông có đến Toà Lãnh sự Mỹ tại Côn Minh xin chiếu khán đi Mỹ để lo đấu tranh ngoại vận. Sau đó, ông tìm mọi cách để liên lạc với Đồng minh và hứa hẹn hợp tác. Để đạt mục tiêu, ông khoe thành tích là Việt Minh đã cứu cho một phi công Mỹ khi bị bắn hạ trong một cuộc giao tranh tại Sài Gòn.
Để tỏ lòng biết ơn, các viên chức Mỹ tạo điều kiện cho Tướng Claire Chennault, Tư lệnh Không quân Mỹ, người thành lập Lực lượng Flying Tigers, tiếp kiến ông Hồ. Nhân dịp hy hữu này, ông xin được chụp hình chung và chử ký làm kỷ niệm. Bằng chứng qúy giá này tạo cho ông có dịp khoe với người Việt và ngoại quốc là từ nay Mỹ đã chính thức hỗ trợ cho Việt Minh, một khởi đầu mới cho sự nghiệp đấu tranh. Nhưng cơ hội tiếp xúc chính thức với Mỹ vẫn chưa đến.
Một tình cờ khác lại đến cho ông. Sau khi Nhật đầu hàng, Jean Sainteny, đại diện cho Pháp đến Hà Nội tìm gặp ông để thương thuyết, tháp tùng còn có Thiếu tá Archimedes L. A. Patti, đại diện của OSS, người lo phụ trách việc tìm kiếm tù binh cho Đồng minh.
Quen đuợc Patti, ông có dịp kể lại bao kỷ niệm lúc tuổi thanh xuân khi còn bôn ba tại New York và Boston và tỏ ý muốn tham khảo về việc soạn thảo Bản Tuyên ngôn của Thomas Jefferson. Qua nhiều lần tiếp xúc, ông Hồ tỏ ra lạnh nhạt với Sainteny và kết thân nhanh chóng với Patti. Khi ông yêu cầu OSS hỗ trợ cho Việt Minh hoạt động, Patti chấp thuận.
Theo dự trù, OSS sẽ lo cung cấp vũ khí và tiếp tế cho Việt Minh. Để tiện việc hợp tác, OSS đặt cho ông một bí danh là „Lucius“, để đổi lại, Việt Minh sẽ cung cấp tin tức về tình hình chuyển quân của Nhật cho OSS. Khi các phi công Mỹ bị bắn hạ, Việt Minh cũng giúp cho OSS giải quyết vấn đề.
Nhận ra tầm quan trọng của Mỹ hơn Liên Xô trong hoàn cảnh này, ông Hồ nhờ OSS chuyển thư cho chính phủ Mỹ, trong đó có cả thư tay cho Tổng thống Harry S. Truman, đề nghị đặt quan hệ ngoại giao, hy vọng được Mỹ ủng hộ trong cuộc thương thuyết giữa Trung Quốc và Pháp. Quan trọng nhất cho Việt Minh là muốn Mỹ công nhận Chính phủ Lâm thời là đại diện duy nhất và hợp pháp của Việt Nam. Dù ông Hồ tha thiết khẩn cầu qua bảy lá thư tay, Truman không đáp ứng vì cho ông Hồ là người cộng sản quốc tế và bù nhìn của Moscow.
Trước các cáo buộc này, ông Hồ cố biện minh là thuần tuý hoạt động cho độc lập dân tộc, dù không thể phủ nhận là đã ở Moscow trong nhiều năm. Tuy nhiên, Mỹ không tin các minh chứng này.
Cuối tháng 9 năm 1946, Mỹ rút toán OSS tại Việt Nam về nước, chấm dứt liên hệ với Việt Minh, đánh dấu cho giai đoạn khởi đầu của cuộc chiến Đông Dương.
Tại sao Mỹ ra đi?
Tổng kết giai đoạn hợp tác Việt-Mỹ có nhiều cách giải thích khác nhau. Theo quan điểm chính thức là đơn giản nhất: nhiệm vụ của OSS đã chấm dứt và ông Hồ là một cộng tác viên đắc lực hoàn thành nhiệm vụ.
Khi hồi tưởng lại việc hợp tác, các viên chức OSS dành nhiều cảm tình tốt đẹp với ông Hồ và các dân quân kháng chiến. Ông Hồ còn mang một mối thâm ân của Mỹ khi lâm bệnh sốt rét rừng, ông được các bác sĩ Mỹ tận tình cứu chửa.
Thực ra, ngoài hoàn cảnh đặc thù của Việt Minh và quan điểm chính trị của ông Hồ, còn có những tiềm ẩn sâu xa hơn.
Bang giao quốc tế trong toàn cảnh đang diễn biến với một khởi đầu mới. Các thách thức phức tạp là nan giải. Tây Âu trong bối cảnh hậu chiến đầy bất trắc và Pháp lại đang suy yếu mọi mặt.
Trước khi chết, Tổng thống Franklin D. Roosevelt không muốn can dự vào Đông Dương, mà nỗ lực chính là giúp cho châu Âu tái thiết và củng cố vị thế cho Pháp. Do đó, Mỹ để cho Pháp toàn quyền quyết định.
Khi Trung Quốc còn phân tranh Quốc-Cộng và chưa thực sự trỗi dậy, nhưng tình hình Nga chưa củng cố và phát triển đúng mức, nên sự đối kháng của hai khối Tư bản và Cộng sản chưa thành hình.
Nhìn trong quan điểm chiến lược chung, Việt Nam không phải là mối bận tâm cho Mỹ như trong khuôn khổ Chiến tranh Lạnh về sau.
Ngược lại, để nêu cao thành tích đấu tranh chống Mỹ xâm lược, các sử gia của Đảng không muốn công khai thú nhận là ông Hồ quan tâm đến vai trò của OSS và tìm kiếm sự hợp tác với Mỹ. Họ cáo buộc Mỹ đã tước đoạt quyền cai trị Đông Dương trong tay của Pháp, thổi phòng tham vọng xâm chiếm lãnh thổ của Mỹ, mà không có căn cứ lịch sử.
Nhìn trở lại toàn cảnh hỗn loạn của đất nước trong buổi giao thời, các sử gia hiện đại có các kết luận khác hơn.
Cách mạng tháng Tám không phải để giành độc lập dân tộc, mà cướp chính quyền tiền nhiệm bằng bạo lực cách mạng. Người Mỹ không thay thế người Pháp ở Đông Dương, vì OSS đã có mặt ngay từ đầu. Cho đến cả về sau, khi chiến tranh diễn ra khốc liệt, Mỹ không có tham vọng lãnh thổ như Pháp.
Một giả thuyết về sau cho là nếu ông Hồ tạo được uy tín cá nhân, cũng như có khả năng thuyết phục Mỹ ý thức được tầm quan trọng của Đông Dương để tiếp tục hợp tác, thì lịch sử của Việt Nam có thể sẽ khác hơn, còn việc ông nổi danh thành vị cha già dân tộc, đó là các chuyển biến về sau tác động.
Còn tiếp: Chiến tranh Đông dương khởi đầu