Lời giới thiệu: Chiến tranh Đông Dương là một đề tài quan trọng đã được tác giả biên soạn rất lâu, vì nhiều lý do khác nhau mà đến nay mới hoàn tương đối tạm chỉnh. Được biên tập lại theo một bố cục mới, liên tục và khái quát hơn, bài viết sẽ lần lượt giới thiệu trên trang nhà, khởi đầu là vai trò của ông Hồ trong Cách mạng tháng Tám và sự hợp tác với OSS, kết thúc là chiến cuộc Điện Biên Phủ và Hiệp định Geneve 1954.
Nhìn trở lại toàn cảnh hỗn loạn của đất nước trong buổi giao thời, có nhiều vấn đề đặt ra mà bài viết không thể đi vào chi tiết, thí dụ như tại sao các đảng phái không thể đoàn kết để chống Pháp mà lại trấn áp nhau, tại sao đấu tranh nghị trường và ngoại giao không thể đem lại độc lập cho Việt Nam mà phải đấu tranh qua hình thức kháng chiến. Tình hình Ấn Độ và Miến Điện phức tạp hơn, tại sao họ thành công bằng phưong tiện hiếu hoà, còn Việt Nam thất bại. Cáo buộc là Pháp không có thực tâm trao trả độc lập có hợp lý không, khi Đông Dương trong Liên Hiệp Pháp là một khung pháp lý khả thi hay tại chính giới Việt Nam không đủ nghị lực thương thuyết? Tại sao chiến thắng Điện Biên phủ không được các tướng lãnh về sau đem ra học tập để tránh tình trạng sát quân, những kinh nghiệm khi thương thuyết Hiệp định Genève không được thảo luận cho Hiệp định Paris. Các bài học lịch sử vẫn còn đó cho hậu thế.
Vì trình bày trong một khuôn khổ khái quát, nên bài viết này còn vô số các chi tiết lịch sử không thể đề cập đến (thí dụ như tiểu sử Bác Hồ, sự thành hình các đảng phái quốc gia, giáo phái, diễn biến chi tiết các trận đánh Điện Biên Phủ và đàm phán Hiệp định Genève) để làm cho các vấn đề tồn động được sáng tỏ hơn. Do đó, đóng góp khiêm tốn này còn nhiều khiếm khuyết. Các chú thích và thư mục tham khảo sẽ được bổ sung khi in thành sách. Hy vọng độc giả vui lòng chỉ chỉ dẫn để việc bổ sung được hoàn chỉnh hơn. Xin đa tạ. DKT.
***

Bối cảnh ngày 2 tháng 9 năm 1945
Lúc 2 giờ chiều ngày 2 tháng 9 năm 1945, một chiếc phi cơ Mỹ bay lượn một vòng trên bầu trời Hà Nội và có mang theo các nhân viên thuộc Sở Tình báo Chiến lược (Office of Strategic Services, OSS), tiền thân của Cơ quan Trung ương Tình báo (Central Intelligence Agency, CIA). Họ liếc mắt nhìn xuống Quảng trường Ba Đình, nơi có hàng trăm ngàn người Việt Nam đang đứng tụ họp trước khán đài với rừng cờ đỏ sao vàng và hoan hô cuồng nhiệt ông Hồ Chí Minh, nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản.
Khi nhân danh đại diện cho phong trào giành độc lập dân tộc, ông Hồ tuyên bố là Việt Nam từ nay thoát khỏi sự cai trị của chế độ thuộc địa của Pháp và tình trạng chiếm đóng của Nhật. Dựa theo nội dung trong Bảng Tuyên ngôn Độc lập của Tổng thống Hoa Kỳ Thomas Jefferson, đọc ngày 4 tháng 7 năm 1776, ông hô hào là tất cả mọi người được sinh ra bình đẳng, vì „Đấng Tạo hoá đã trao cho chúng ta quyền bất khả chuyển nhượng: quyền sống, quyền tự do và quyền hạnh phúc.“
Đây không phải là giây phút ngẩu hứng nhất thời, thực ra, ông đã dành nhiều thời gian và công sức để chuẩn bị cho diễn biến trọng đại này.
Hồ Chí Minh là ai?
Ông Hồ tên thật là Nguyễn Sinh Cung, sinh tại làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, học đến hết lớp sáu tại Huế, từ bỏ gia đình khá sớm và có lẽ là một trong những người Việt đầu tiên tham gia phong trào xuất khẩu lao động quốc tế. Ngày 5 tháng 6 năm 1911, ông rời Sài Gòn trên chiếc tàu hàng Latouche-Tréville làm phụ bếp để mưu sinh.
Khi đến Marseilles, ông viết thư cho chính phủ Pháp ngỏ ý xin học Trường Thuộc Địa, hy vọng là sẽ đóng góp hữu ích cho thực dân Pháp và sử dụng kiều hối để giúp cho thân sinh đang lưu lạc phương Nam và gặp khó khăn vì sinh kế, nhưng Pháp không chấp thuận.
Đi qua nhiều thành phố như Bombay, New York, Boston và Luân Đôn, dừng chân tại Paris trước khi Đệ nhất Thế chiến bùng nổ, ông có cơ hội làm quen với một vài người Pháp theo Đảng Xã hội và từ đó manh nha ý tưởng đấu tranh cho đất nước.
Xuất hiện lần đầu tiên trong ngày 18 tháng 6 năm 1919 trước Hội nghị Paris, ông kêu gọi công luận Pháp và Tổng thống Woodrow Wilson, người đang tham dự Hoà đàm Versailles, nên tôn trọng quyền dân tộc tự quyết của Việt Nam, nhưng không gây được tiếng vang.
Sau nhiều nỗ lực âm thầm khác, ông có cơ hội tham dự Đại hội Đảng Xã hội Pháp tại Tours năm 1920 và trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp, Đảng duy nhất trong chính trường có chủ trương chính thức ủng hộ các nước thuộc địa chống thực dân Pháp.
Không bao lâu sau, ông Hồ cùng các bạn đồng sự là Phan Chu Trinh, Nguyễn thế Truyền và Phan Văn Trường hợp soạn những bài báo bằng Pháp ngữ để lên án chủ nghĩa thực dân mà Nguyễn Ái Quốc là một bút danh tập thể.
Từ đó, ông bị cảnh sát Paris theo dõi, dù họ không tin khả năng Pháp ngữ và uy tín đấu tranh của ông khi so với các bạn đồng sự. Cuối cùng, năm 1924, ông bị buộc phải rời khỏi nước Pháp và đành lang bạc nhiều nơi, nhưng thời gian chủ yếu là ông ở Moscow, Trung Hoa và Thái.
Khi đến Liên Xô vào năm 1922, ông tham gia Đại hội Quốc tế Cộng sản và nhờ thế mà có cơ hội gặp được Lenin. Năm 1923, sau khi theo học tại trường Đại học Lao động Cộng sản Phương Đông với chuyên khoa chủ nghĩa Marx, năm 1924, ông chuyển sang làm phiên dịch viên trong phái đoàn Mikhail Markovich Borodin ở Quảng Châu. Năm 1928, ông đến Thái để đảm nhiệm việc tuyên truyền, huấn luyện cho Việt kiều và xuất bản báo để gửi về trong nước. Cuối năm 1929, vì nhiều lý do khác nhau, ông trở lại Trung Quốc.
Qua thời gian bôn ba nhiều nơi và hoạt động trong nhiều lĩnh vực chìm nổi, ông trở thành nhà cách mạng chuyên nghiệp để tranh đấu cho độc lập của Việt Nam.
Khi thảo luận cùng với các nhà trí thức khác về tương lai cho đất nước, ông nhận ra các đặc điểm quan trọng nhất của tình hình. Đó là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929 làm cho Pháp suy yếu và Nga lại thành công trong việc triển khai kế hoạch phát triển theo mô hình xã hội chủ nghĩa của Joseph Stalin. Theo ông, một khích lệ quan trọng trong lịch sử đấu tranh cho dân tộclà Việt Nam không hề bị đồng hoá, dù giặc Tàu có đô hộ đến ngàn năm.
Dựa theo các quan điểm này, ông Hồ và tất cả các đồng chí Hồ tập Chương, Hồ tùng Mậu, Trịnh đình Cửu, Lê Tấn Anh, Trần Văn Cung, Lê Hồng Sơn cùng đồng thuận thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương vào ngày 3 tháng 2 năm 1930 tại Hồng Kông. Qua thành phần nhân sự cốt cán này cho thấy một điểm quan trọng là Nguyễn Ái Quốc và Hồ Tập Chương không phải là một người.
Chuyện không may xảy đến là nhà cầm quyền Hồng Kông bắt giam Nguyễn Ái Quốc và có ý định trao trả cho chính quyền Pháp để tiếp tục xét xử. Không bao lâu sau, trong số ra ngày 9 tháng 8 năm 1932, tờ L’Humanité thuộc Đảng Cộng sản Pháp có loan tin là Nguyễn Ái Quốc đã chết trong nhà tù vì bệnh lao phổi.
Về sau, có một nguồn tin khác cải chính, bản tin đã được Đảng Cộng sản Pháp tung ra trước đây là thất thiệt nhằm để đánh lừa chính quyền và công luận Pháp. Sự thật khác hẳn. Nhờ luật sư Frank Loseby biện hộ, ông được thả vào ngày 28 tháng 12 năm 1932, rồi trở lại Liên Xô để tiếp tục hoạt động. Từ đó, ông không còn xuất hiện trên chính trường.
Một bí ẩn cho đến ngày nay là vấn đề Nguyễn Sinh Cung đã chết như đồng chí của ông là Hà Huy Tập xác nhận hay còn hoạt động cho Liên Xô như vợ của Luật Sư biện hộ cải chính. Cả hai nguồn tin đều là có mức khả tín khác nhau.
Nhật thỏa thuận với Pháp để chiếm Việt Nam
Tình thế quốc tế trong năm 1940 đổi thay triệt để. Chiến thắng của Hitler đối với Pháp là một tác động thời sự mãnh liệt cho cao trào đấu tranh giành độc lập của người Việt.
Từ tháng 9 năm 1940, là đồng minh của Đức, Nhật nhận ra được thời cơ này và nhanh chóng thỏa thuận với chính quyền Vichy để giành toàn quyền cai trị Đông Dương. Qua mật ước với Pháp, Nhật đồng ý là chủ quyền của Pháp sẽ không thay đổi và tuyệt đối tự do hành động trong khi Nhật chiếm đóng Việt Nam.
Ông Hồ xuất hiện
Sau một thời gian dài mất tích đầy bí ẩn, vào ngày 28 tháng 1 năm 1941, Hồ Chí Minh, từ Trung Hoa trở về Việt Nam lãnh đạo Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Minh, một tổ chức quy tụ được hầu hết tất cả các tầng lớp người Việt đấu tranh và mang khẩu hiệu là „Phản Pháp – Kháng Nhật – Liên Hoa – Độc Lập“.
Nhưng Hồ Chí Minh là ai? Hiện thân của Nguyễn Sinh Cung của làng Kim Liên, Nguyễn Ái Quốc của Paris, Hồ Tập Chương của Hồng Kông ngày nào? Không ai xác định được một tên tuổi vẫn còn xa lạ trong giới đấu tranh. Thực ra, trong khí thế mới, không ai quan tâm đến các chi tiết cá nhân này. Về sau, vấn đề được tranh luận sôi nổi hơn khi tìm hiểu về nhân thân của Hồ Quang, một vị lãnh dạo trong Đệ Bát Lộ Quân.
Nhưng các giới đấu tranh đương thời đều có một nhận định chung: ông Hồ là một nhân vật có tầm vóc cho công cuộc đấu tranh cách mạng, không những thông thạo binh pháp mà còn có tài năng lãnh đạo và giáo dục quần chúng. Bằng ngôn ngữ bình dị và cử chỉ thân thiện, ông Hồ giải thích về khát vọng giành độc lập cho dân tộc, tinh thần dân chủ tự do và đạo đức xã hội.
Gây thu hút dân chúng dễ dàng, ông Hồ thể hiện uy tín cá nhân qua tài năng lãnh đạo qua việc thu phục nhân tâm và huy động tài nguyên vật lực. Tất cả các yếu tố này tạo cho ông chiếm được vai trò lãnh đạo không đối thủ và gây tranh cải.
Khi lo xây dựng căn cứ cho Việt Minh, ông tỏ ra khôn ngoan sử dụng địa hình Việt Bắc, một khu vực đầy hiểm trở trong vùng biên giới Hoa-Việt, nơi kháng chiến Việt hoạt động bên cạnh các tổ chức tình báo Mỹ, Pháp và Tàu.
Bên cạnh việc hợp tác tình báo quốc tế, Việt Minh còn tổ chức buôn bạch phiến của Tàu để chở về Thái, mua vũ khí và vàng tại Thái và đảm nhiệm mọi nghiệp vụ sinh lợi khác để có thêm điều kiện hoạt động.
Về mặt ý thức hệ, ông cũng tận dụng các lý thuyết của Lenin và Mao Trạch Đông làm các lợi thế đấu tranh.
Theo Lenin, chiến lược đấu tranh là thành lập một Liên minh Công Nông để chống lại chế độ thực dân. Theo Mao Trạch Đông, ngược lại, huy động các thành phần nông dân nỗi dậy sao cho phù hợp với hoàn cảnh tại châu Á là chủ yếu, mà cụ thể là lấy rừng núi tiến về nông thôn rồi lấy nông thôn bao vây thành thị.
Thuận lợi nhất cho Việt Nam đã thể hiện tinh thần chống ngoại xâm, nếu so với các nước khác thuộc châu Á. Khi thực dân Pháp đô hộ tàn bạo, đó là lý do chính đáng để các trào lưu chống Pháp dễ dàng kết hợp hơn.
Ông Hồ tỏ ra khéo léo khi đề ra các phương sách khả thi, không những trong bối cảnh hỗn độn này mà còn cả trong lúc đàm phán chính thức cho Việt Nam về sau: ông biết dùng Mỹ chống Pháp, dùng Pháp chống Tàu, dùng Tàu chống Mỹ, dùng Tàu chống Tàu và dùng tất cả để triệt hạ các phong trào của người Việt quốc gia cùng mục tiêu đấu tranh. Ông quan tâm ưu tiên tới Mỹ và hy vọng là Tổng thống Harry S. Truman sẽ hỗ trợ tích cực cho Việt Minh, một sự thật mà về sau các sử gia của Đảng luôn tìm cách phủ nhận khi đề cao tinh thần chống Mỹ cứu nước.
Nhật lật đổ Pháp
Sau khi không kích đột ngột Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12 năm 1941, Nhật chiếm nhiều lãnh thổ khác tại châu Á. Nhìn chung, nếu so với các cường quốc thuộc địa khác như Pháp, Anh và Hà Lan, thực ra, Nhật đối xử tàn bạo và đẩm máu hơn.
Từ tháng 8 năm 1944, Đồng minh giải phóng Paris. Việt Nam nhận ra ngay một vận hội mới: ngày tàn của chế độ Pháp đã bắt đầu và nguy cơ đang đến gần hơn bao giờ hết.
Khi phát hiện Pháp chuẩn bị chống Nhật trong lúc Đồng minh đổ bộ vào Đông dương, ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật nhanh chân lật đổ Pháp.
Tại Sài Gòn, đại sứ Nhật Matsumoto trao cho Đô đốc Decoux một tối hậu thư đòi Pháp phải trao quyền lãnh đạo quân đội Pháp cho Nhật.
Sau 2 giờ tham khảo, Đô đốc Decoux quyết định bác bỏ yêu cầu này. Trong vòng 48 giờ, Nhật tước quyền lãnh đạo của Đô đốc Decoux, cùng lúc ra lệnh bỏ tù hoặc tập trung các nhân viên Pháp. Cũng tương tự như tại Sài Gòn, tại Hà Nội, Nhật tập trung nhiều người Pháp, nhưng có hành hạ một số cho đến chết.
Do đó, chỉ trong hơn một ngày, chế độ thực dân Pháp trên toàn Đông dương không còn tồn tại và Nhật thay thế cho Pháp cai trị thuộc địa.
Xem tiếp : Đế quốc Việt Nam và Hoàng đế Bảo Đại