Đỗ Kim Thêm
Ý Nghiã Truyền Thống
Hoà bình không phải là một khái niệm mới mà đã có từ trong những truyền thống văn hoá ngàn xưa, đặc biệt nhất là tại Trung Quốc, và một trong những triết gia tiêu biểu nhất là Lão Tử. Ông sống vào khoảng thế kỷ VI trước Công nguyên và là tác giả Đạo Đức Kinh. Trong tác phẩm này, Lão Tử bàn đến những hình ảnh an hoà của nước và gió. Dù đặc điểm của cả hai là mềm yếu nhưng đó chính là hai phương tiện cực kỳ hữu dụng, còn mạnh hơn sắt và đá. Vì đặc điểm này mà ông khuyên giới lãnh đạo quân sự nên thông minh hơn để tìm cách sử dụng trong các chiến lược quân sự.
Ngược lại, Mặc Tử (468-391 trước Công nguyên) có quan điểm hiếu hoà và lập luận là tình yêu là một giá trị đạo đức nhân sinh phổ quát và hoà bình là một mục tiêu nhân bản đáng tôn trọng nhất và luôn nằm trong tầm tay của con người. Nói một cách đơn giản, ông cho rằng: “Hãy làm điều thiện cho tha nhân, thì tha nhân đối xử tốt đẹp với ta.“
Nhưng quan trọng nhất có lẽ là Khổng Tử, (551- 479 trước Công nguyên) tác giả Luận Ngữ. Ông lập luận là hoà bình là một tình trạng an hoà trong xã hội và cũng là một mục tiêu tối hậu của con người. Để đạt đến mục tiêu này ta phải đối xử với thuộc hạ giống như đối với bậc trưởng thượng.
Lý tưởng về hoà bình cũng có nền tảng trong Thiên Chuá giáo, Do Thái giáo và Hồi giáo. Theo nhận xét chung của các sử gia thì các tôn giáo này là hiếu chiến lúc cổ thời. Các Đấng Abraham, Mose và David được mô tả là một khuôn mặt đấu tranh trong Cựu Ước và những người Do Thái là những chiến binh không khoan nhượng. Qua thời gian các truyền thống đều thay đổi, nhất là trong Thiên Chúa giáo. Tình yêu thương và tinh thần bất bạo động được đề ra trong Tân Ước, thí dụ điển hình là khi Đức Chuá Jesus có nói với tín hữu trong thông điệp về Hoà Bình của Ngài: “Ta xin gởi lòng bình an đến anh chị em.“
Khác hằn với truyền thống tôn giáo, hòa bình không phải là vấn đề nổi bật trong nền văn hoá thời cổ của Hy Lạp, vì hầu như không có một khái niêm nào rõ rệt về chiến tranh hay hoà bình. Thuycydides là một sử gia, tác giả Đối thoại Melian, đề xuất là quân bình cấu trúc quyền lực là thiết yếu và phải được duy trì để kiến tạo hoà bình tại các thành phố của Hellas.
Trong tác phẩm lịch sử về chiến cuộc Peloponnesian, ông cho là thoả ước giữa các quốc gia là có tầm quan trọng và chính giới phải nỗ lực để tránh làm tan vỡ kết ước. Ngay trên bãi chiến trường, tướng lãnh cũng phải đối xử bình đẳng và tôn trọng kẻ thù.
Trong chiều hướng này, Aristote trong tác phẩm về đạo đức Nichomachean, cổ vũ vai trò mậu dịch và hợp tác để đạt đến hoà bình, mặc dù trong thực tế nhiều cuộc chiến thảm khốc xảy ra trong thời này.
Ý Nghiã Hiện Đại
Hiện nay đã có nhiều nghiên cứu về các ý nghiã dị biệt của hoà bình. Theo nghĩa rộng, hoà bình được hiểu chung là hạnh phúc, hoà hợp, công bình, tự do và có hai khiá cạnh là tích cực và tiêu cực.
Tích cực có nghiã là các thành tố đóng góp cho tình trạng hoà bình của cá nhân và xã hội đạt được mơ ước. Tình trạng cá nhân đó là sự bình yên nội tại trong con người và an hoà xã hội nhằm chỉ sự hoà hợp của các cá nhân khi chung sống.
Hoà bình theo nghĩa tiêu cực được hiểu là sự vắng mặt của chiến tranh hay các hình thức khác của các xung đột. Hình thức tiêu cực này lại hỗ trợ tích cực cho hoà bình trong thời kỳ thương thuyết, bởi vì các phe lâm chiến đang cần đình chỉ giao tranh.
Thực ra, hoà bình theo nghĩa tiêu cực không luôn là một giải pháp tương ứng tốt đẹp, vì đó cũng có thể là do ý chí chính trị của kẻ mạnh đối với kẻ yếu, thí dụ như hoà bình dưới thời đế quốc La Mã. Hoà bình là nhờ có bạo chúa đàn áp khi áp dụng luật La Mã, kết quả của chế độ nô lệ và độc tài và vì thế mà không thể gọi là hoà bình theo một ý nghĩa chân chính.
Theo trào lưu chung các nhà nghiên cứu quan tâm nhiều hơn về tầm quan trọng của hoà bình theo ý nghĩa tích cực. Họ lập luận là sử dụng bạo lực trực tiếp và kết quả bi thảm của đàn áp dễ nhận ra hơn. Vì thế mà họ giải thích nguyên nhân của xung đột là do sử dụng bạo lực theo tính cấu trúc mà các khía cạnh xã hội, văn hoá và kinh tế là vấn đề cần tìm hiểu.
Từ Điển Quốc tế Webster định nghiã hoà bình theo những chuẩn mực như sau: thoát khỏi những phẫn nộ hay hỗn loạn của dân chúng; tình trạng bình yên chung, an toàn hay ổn định trong phạm vi một cộng đồng tạo nên do luật pháp, phong tục hay công luận; trạng thái tâm linh hay tinh thần được đánh dấu bởi vì không còn lo âu do những tư tưởng đàn áp hay cảm xúc và cuối cùng là tình trạng hoà hợp giữ các chính quyền, nhất là khi không còn thù hận hay chiến tranh.
Tóm lại, chúng ta có thể kết luận là hoà bình là tình yêu thương, hoà hợp và công bình. Hai khía cạnh tích cực và tiêu cực đều quan trọng và bổ sung nhau. Kiến tạo và gìn giữ hoà bình là một nhu cầu ưu tiên thiết yếu cho nhân loại hôm nay.