Kỷ niệm 75 năm ngày công bố (23/5/1949 – 23/5/2024)
Aus Politik und Zeitgeschichte
Dieter Grimm
Đỗ Kim Thêm dịch

Bản in đầu tiên của Luật Cơ bản được lưu trữ tại Quốc hội Đức và chỉ được mang ra sử dụng trong các buổi lễ tuyên thệ của Tổng thống và Thủ tướng Đức.
Luật Cơ bản (Das Grundgesetz) là một bản hiến pháp tương đối cũ, nhưng không có nghĩa lỗi thời. Ngay cả khi các chuẩn mực và nguyên tắc bị thách thức bởi các tiến trình thay đổi chính trị và xã hội hiện tại, chúng vẫn quan trọng hơn bao giờ hết đối với nền dân chủ.
So với bản hiến pháp lâu đời nhất trên thế giới, Hiến pháp Hoa Kỳ đã có hiệu lực trong 235 năm, thì Luật Cơ bản còn non trẻ ở tuổi 75. Trong sự phối hợp với tất cả các hiến pháp có hiệu lực ngày nay, Luật Cơ bản là một trong những hiến pháp cũ. Trong xã hội hiện đại, „trẻ“ có xu hướng được ưa thích hơn „già“. Điều này dường như không đượcáp dụng cho hiến pháp. „Cũ“ ở đây đồng nghĩa với „đã được chứng minh“. Không có gì thường được chứng thực trong Luật Cơ bản hơn là sự bảo tồn. Tư tưởng về Hiến pháp Weimar trước đó luôn cộng hưởng, mà theo niềm tin chung, nó không chịu được sự thử thách của thời gian, bởi vì trong thời gian dài, nó chỉ vận hành trong hoàn cảnh đặc biệt và cuối cùng không thể ngăn chặn được việc Hitler lên nắm quyền.
Một phần lớn trong các quy định của Luật Cơ bản được hấp thụ từ các kinh nghiệm này. Tuy nhiên, việc nói về Luật Cơ bản như một „Hiến pháp chống Weimar“ là không chính xác. Trong tất cả các nguyên tắc cơ bản, nó có liên quan đến Hiến pháp Weimar: nền dân chủ, nhà nước pháp quyền, nhà nước phúc lợi xã hội, nhà nước liên bang. Chỉ trong việc xây dựng các nguyên tắc mà sự khác biệt phát sinh. Nền dân chủ kiên quyết theo chế độ đại nghị, các yếu tố theo tổng thống chế và trưng cầu dân ý hơn theo Hiến pháp Weimar bị cắt giảm. Nhà nước pháp quyền không chỉ giới hạn ở khía cạnh hình thức, tính hợp pháp trong hành vi của nhà nước, mà luật pháp cũng phải tuân thủ các tiêu chí thực chất nhất định của công lý, vấn đề được thể hiện trong các quyền cơ bản. Đối với khía cạnh về nhà nước phúc lợi xã hội, nó vẫn là một nguyên tắc chung thay vì là một loạt các quyền xã hội cơ bản. Và cuối cùng, Luật Cơ bản mang tính liên bang hơn là Hiến pháp Weimar.
Đó có phải là lý do cho việc bảo tồn? Nếu chúng ta nhìn vào bước khởi đầu, Hội đồng Nghị viện, nơi soạn thảo Luật Cơ bản, đã tỏ ra hài lòng với sản phẩm của mình. Trên bước đường dẫn đến việc soạn thảo văn bản chung quyết, có rất nhiều tranh chấp và đôi khi đầy khó khăn, nhưng cuối cùng, chỉ có hai phiếu bất đồng từ hai của đảng viên KPD. Tuy nhiên, khi họ rời khỏi phòng họp của Hội đồng Nghị viện, bức tranh đã thay đổi. Cử toạ ít quan tâm đến diễn biến này. Năm trước đó, việc cải cách tiền tệ đã thu hút được nhiều sự quan tâm hơn. Các chuyên gia về Hiến pháp học đã lên tiếng khi nhận thấy rằng Luật Cơ bản thất bại và cho rằng nó yểu mệnh. Làm thế nào để điều này phù hợp với việc bảo tồn?
Đã được “chứng minh“ là một xét đoán khi về sau nhìn lại. Ban đầu, Hiến pháp Weimar được coi như là hiến pháp đặc biệt hoàn hảo, ngay cả ở nước ngoài. Mặc dù không gì chắc chắn cho rằng một hiến pháp tệ hại sẽ đứng vững, nhưng cụng không có sự bảo đảm cho việc bảo tồn một Hiến pháp hoàn hảo. Ngày nay, chúng ta không còn chia sẻ về nhận xét không giá trị trong thời hậu chiến về Hiến pháp Weimar, từ đó Hội đồng Nghị viện không được tự do, nhưng nền tìm hiểu về các điều kiện mà Hiến pháp Weimar nên phát huy. Nó không còn chỉ là về chất lượng pháp lý, thay vào đó tập trung vào những thách thức mà hiến pháp phải đối mặt và phương cách được đáp ứng theo luật.
Các điều kiện để thành công
Đối với những thách thức, sự khác biệt đối với Hiến pháp Weimar hầu như không có thể lớn hơn. Luật Cơ bản không có đối thủ quan trọng nào làm đối trọng. Mặc dù không phải tất cả người dân và quá ít các chính trị gia đều là các nhà đân chủ mang tâm huyết, nhưng trong thời hậu chiến, dưới ánh sáng của quá khứ thuộc về chủ nghĩa Quốc xã Xã hội chủ nghĩa, hình ảnh đối nghịch đầy đe doạ của CHDC Đức và sự kiểm soát còn tiếp diển của các cường quốc chiến thắng, thì không có sự thay thế nào dành cho Luật Cơ bản. Nhưng cũng không có lý do gì dành cho sự bất mãn triệt để với hệ thống mới, bởi vì 20 năm đầu tiên của Cộng hòa Liên bang Đức song hành với việc tăng trưởng kinh tế đều đặn, nó giúp cải thiện các điều kiện sống của đa số dân chúng, mặc dù là không đồng đều.
Tuy nhiên, giả định về sự hài hòa trong toàn diện sẽ là sai. Ngược lại, có những xung đột nghiêm trọng và nghiêm khắc, nhưng các thành phần tham gia trong cuộc xung đột này đã thực hiện chúng trong khuôn khổ của Luật Cơ bản và không đặt vấn đề gì về nó, ngay cả khi họ giải thích về Luật một cách khác nhau. Đại đa số dân chúng cảm thấy rằng ý tưởng và lợi ích của họ được thể hiện trong hệ thống ba đảng mới thành hình. Kể từ cuộc bầu cử Quốc hội Đức lần thứ ba vào năm 1957, hai đảng lớn, CDU/CSU và SPD, cùng nhau có được số phiếu bầu trong hơn 30 năm với tỷ lệ hơn 80%, và thậm chí có hai lần hơn 90%. Ngay cả khi Cộng hòa Liên bang Đức trải qua bước ngoặt lớn đầu tiên với phong trào phản kháng và đổi mới năm 1968, sự hiểu biết về Luật Cơ bản đã bị ảnh hưởng, nhưng bản thân Luật Cơ bản thì không. Hệ thống đảng vẫn ổn định cho đến khi việc thiếu quan tâm đến vấn đề môi trường đã giúp cho đảng Xanh thâm nhập được Quốc hội Đức vào năm 1983.
Ngoài ra, việc tu chỉnh hiến pháp thường có thể đạt được với tỷ lệ đa số hai phần ba cần thiết. Trong thời kỳ Weimar, những thay đổi hiến pháp đã không được thực hiện, ngay khi việc này là tối cần thiết, bởi vì hai đảng cực đoan NSDAP và KPD cùng nhau chiếm đa số tuyệt đối kể từ năm 1932, họ có thể phá hủy bất kỳ sự thành lập chính phủ hoặc biện pháp của chính phủ nào, nhưng không thể tạo ra được một đa số để thay thế. Luật Cơ bản đã ngăn được những thách thức ở mức độ quy mô này. Nó đã điều chỉnh được các điều kiện đang thay đổi bằng cách tu chỉnh hiến pháp, mà hầu hết trong số đó có liên quan đến trật tự nền móng của liên bang. Các cuộc khủng hoảng kinh tế đầu tiên làm rung chuyển Cộng hòa Liên bang Đức đòi hỏi sự thống nhất mạnh bạo hơn, và tâm trạng chung của người dân là ủng hộ cho việc này. Mặt khác, các nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp không chống đối việc này chút nào và các quyền cơ bản chỉ thay đổi rất ít.
Không phải tất cả các tu chỉnh hiến pháp đều cải thiện được Luật Cơ bản. Trước hết, xu hướng gây tác hại, vì không dừng lại ở các lời tuyên bố cơ bản, như nó tương ứng với chức năng của hiến pháp, nhưng với các quy định nhiều chi tiết làm cho Luật Cơ bản bị quá tải, thực ra, vị trí của nó là ở cấp độ luật thông thường. Ngày nay, Luật Cơ bản dài gấp đôi so với năm 1949. Trách nhiệm cho việc này là thuộc về các đảng chính trị, những đảng tìm cách buộc chặt các nguyện vọng của họ ở bình diện hiến pháp càng nhiều càng tốt; do dó, đảng đối lập có thể thay đổi càng ít càng tốt sau khi thay đổi chính phủ. Điều này cho thấy sự quá tải của hiến pháp không phải là một vấn đề thẩm mỹ, mà là dân chủ: mọi thứ được quy định ở bình diện hiến pháp đều làm mất đi tiến trình dân chủ. Các cuộc bầu cử cũng không gây hậu qủa quan trọng.
Canh tân Tòa Bảo hiến Liên bang
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn nữa đối với việc thích nghi của Luật Cơ bản với những thách thức mới và thậm chí còn quan trọng hơn đối với việc thực thi các yêu cầu của nó là án lệ của Tòa Bảo hiến Liên bang. Cũng không có điều tương đương nào cho việc này trong Hiến Pháp Weimar. Các nhà luật học và sử học thống nhất trong kết luận rằng, tòa án đã chứng minh được sự đổi mới mang lại nhiều hậu quả nhất trong Luật Cơ bản. Kết quả là Hiến pháp đã được nâng lên được một tầm cao mới về ý nghĩa. Mặc dù trước đây Hiến pháp đã ràng buộc về mặt pháp lý đối với chính trị, trong trường hợp có sự khác biệt về ý kiến về tầm quan trọng của Hiến pháp đối với các trường hợp cụ thể, không có cơ quan trung dung nào có thể xác định một cách ràng buộc về ý nghĩa của các điều khoản; do đó, việc giải thích của đa số luôn chiếm ưu thế. Trong trường hợp vi hiến, không có cơ quan nào có thể sửa sai chúng.
Mọi vấn đề không là chuyện hiển nhiên. Ngay sau khi thành lập vào năm 1951, Tòa Bảo hiến Liên bang đã đối phó với vấn đề tất yếu là phải quyết định về các xung đột của các quyết định cơ bản trong thời hậu chiến, chẳng hạn như định hướng theo phương Tây và tái vũ trang cho Cộng hòa Liên bang Đức. Phản ứng chính trị cho người ta thấy là có tâm trạng khó chịu an rộng khi các quyết định không diễn ra như mong đợi. Ngay lúc đó, chính phủ thực hiện những nỗ lực nhằm hạn chế quyền tài phán hiến pháp vừa mới được thành hình hoặc về mặt nhân sự làm cho nó phù hợp với đường lối của chính phủ. Điều này thất bại, một phần là do thanh danh mà tòa án đã có được trong cuộc tranh chấp ban đầu, một phần là do sự kháng cự của phe đối lập và các tiểu bang và sự bảo vệ của tòa án trước công chúng.
Khi giải thích và áp dụng Hiến pháp, ngay từ đầu, Tòa Bảo hiến Liên bang đã cam kết với phương châm giúp cho Luật Cơ bản đạt được hiệu quả cao nhất có thể trong những hoàn cảnh nhất định. Kết quả là có sự khác biệt cơ bản với những ý tưởng cũ về việc giải thích luật hiến pháp, mà nó vẫn còn chiếm ưu thế trong thời Cộng hòa Weimar. Một cách giải thích tuân theo nguyên văn của Hiến pháp và giải thích không nhạy cảm trước các hoàn cảnh xã hội mà hiến pháp có hiệu lực, là chưa bao giờ được phát huy tại Karlruhe. Hơn thế nữa, Tòa Bảo hiến Liên bang cố gắng tìm ra ý nghĩa của các chuẩn mực hiến pháp từ các giá trị đằng sau chúng hoặc các chức năng dành cho chúng và liên hệ đến từng tình trạng thực tế của xã hội tương ứng mà trong đó ý nghĩa của các chuẩn mực sẽ được thực hiện.
Việc này dẫn đến một đặc điểm năng động của pháp chế nhạy cảm hơn với sự thay đổi xã hội trong phạm vi áp dụng luật hiến pháp, cho phép Luật Cơ bản vẫn được cập nhật ít nhất cũng như nhiều lần tu chỉnh, thậm chí còn nhiều hơn những sửa đổi này. Trên hết, điều này đã mang lại lợi ích cho các quyền cơ bản, vốn không có liên quan thực tế trước khi du nhập quyền tài phán hiến pháp, không chỉ ở Đức. Tòa Bảo hiến Liên bang Toà đã mở ra những tầm vóc hoàn toàn mới, liên tục lấy cảm hứng từ nền tảng tạo ra ý nghĩa của hiến pháp trong toàn diện, sự bảo đảm phẩm giá con người trong Điều 1.1 của Luật Cơ bản.
Các quyền cơ bản chỉ không giới hạn nữa nhà nước trong việc ủng hộ tự do cá nhân. Các quyền này cũng đòi hỏi nhà nước phải hành động tích cực, khi các quyền cơ bản bảo vệ tự do bị đe dọa bởi các chủ thể tư nhân. Các quyền bảo đảm tự do trong các lĩnh vực xã hội như các phương tiện truyền thông bằng cách đảm bảo rằng, chúng có thể phát triển theo logic riêng và không bị chi phối bởi logic của các hệ thống khác, cụ thể là chính trị và kinh tế. Gần đây, trong phán quyết về khí hậu của Tòa Bảo hiến Liên bang, hiệu lực của các quyền cơ bản cũng được mở rộng cho những thiệt hại do những trì trệ trong hiện tại gây ra nhưng ảnh hưởng tác hại đến tương lai – một sự mở rộng tạm thời phạm vi hiệu lực.
Chức năng của Hiến pháp đã mở rộng đáng kể. Nó không còn chỉ đơn thuần là nhắm đến nhà nước và biện pháp mà trong đó trường hợp tranh chấp được quyết định liệu xem là các hành vi hợp lệ hay phải bị hủy bỏ không. Dựa trên ý tưởng về hiến pháp như là một trật tự của các giá trị, nó không chỉ liên hệ đến trật tự chính trị mà còn xã hội, và chứa đựng các yêu cầu vật chất mà nhà nước phải định hướng các nhiệm vụ và hành động của mình. Trên cơ sở của những ý tưởng như vậy, Hiến pháp đang ngày càng mang tính chất của một ý tưởng chỉ đạo về trật tự tốt đẹp và nó không còn chỉ có hiệu quả ở bình diện pháp lý, mà còn biểu tượng. Theo đó, Tòa Bảo hiến trở thành một người cảnh báo, nhắc nhở chính giới về các nguyên tắc mà họ đã cam kết với xã hội.
Niềm tin và tinh thần sẵn sàng tuân thủ
Nếu không có Tòa Bảo hiến Liên bang, mà nó làm cho sự liên quan của hiến pháp đối với hành động chính trị và tình trạng xã hội trở nên hữu hình gần như hàng ngày đối với công chúng, thì thật khó để tưởng tượng được rằng, Luật Cơ bản đạt được sự tôn trọng cực kỳ đặc biệt mà nó có được như ngày nay. Sự đánh giá cao này cũng đã sống sót qua những thất vọng cay đắng, chẳng hạn như vào thời điểm liên minh tự do xã hội dưới thời Willy Brandt, người có dự án cải cách bị thất bại một phần ở Karlsruhe, hoặc 20 năm sau, sau một loạt các quyết định mà nó gặp phải sự thiếu cảm thông hoặc phản đối trong dân chúng, trên hết là lệnh cấm treo thánh giá trong các trường tiểu học ở tiểu bang Bayern. Tuy nhiên, Tòa Bảo hiến với tư cách là một định chế vẫn không bị ảnh hưởng. Sau một thời gian ngắn không được yêu chuộng, Toà đã trở lại đứng đầu trong các định chế và hưởng được sự tin tưởng lớn lao trong dân chúng.
Sự đánh giá cao gây thuận lợi cho Tòa trong việc tuân thủ các phán quyết. Về cơ bản, các phán quyết không bị đặt thành vấn đề, ngay cả khi hậu quả đối với chính trị là rất to lớn, như trường hợp gần đây với quyết định về việc phanh nợ. Điều này không chỉ áp dụng khi các hành vi nhà nước bị tuyên bố vô hiệu, mà cả khi các nhà lập pháp có nghĩa vụ phải hành động. Luật hiến pháp là một phần đặc biệt dễ bị tổn thương vì nó được nhắm đến những người có quyền tối thượng. Nếu họ không phục tùng Toà; do đó, không có cơ quan nào cao hơn có thể thực thi việc chống lại quyền lực nhà nước. Tòa Bảo hiến được dân chúng ủng hộ, điều này là quan trọng hơn. Việc mất đi tính hợp pháp đang đe dọa làm cho việc coi thường các quyết định của Tòa Bảo hiến trở nên quá tốn kém cho chính trị.
Tuy nhiên, sự gia tăng ý nghĩa của Hiến pháp cũng có một cái giá phải trả của nó. Một mặt, nó khơi dậy lòng mong muốn của tất cả các vị đại diện về lợi ích hoặc nguyện vọng đạo đức đạt được sự công nhận hiến định cho vấn đề tranh chấp của họ, từ nền tảng pháp lý này, có thể sau đó họ đặt vấn đề phân phối các nguồn lực nhà nước hoặc cân bằng các mối nguyện vọng đang cạnh tranh hoặc xung đột.
Mặt khác, các cuộc thảo luận chính trị ở Cộng hòa Liên bang Đức bị giới hạn nhiều hơn trong các khía cạnh về luật hiến pháp so với hầu hết các quốc gia lập hiến khác. Cuộc thảo luận chuyên đề bị ảnh hưởng khi đối thủ nhắm tới một biện pháp chính trị viện mà họ dẫn ngay đến lập luận về vi hiến, trong khi những người ủng hộ nó cố gắng cắt đứt cuộc thảo luận bằng cách trình bày là hành động của họ là hợp hiến và do đó không có lựa chọn nào khác thay thế. Chính trị không chỉ giới hạn trong việc chấp hành hiến pháp.
Tuy nhiên, do thanh danh cao độ của thẩm quyền tài phán hiến định, Cộng hòa Liên bang Đức thiếu đi sự tranh chấp nghiêm trọng như ở Hoa Kỳ. Ở đó, tính hợp pháp của việc tái thẩm, việc xét lại của Tối Cao Pháp Viện các quyết định chính trị, liên tục bị tranh cãi, vì nó „chống đa số“ và do đó phi dân chủ. Tuy nhiên, đó chính là ý nghĩa của hiến pháp, nó đặt ra giới hạn cho đa số vì lợi ích của tự do cá nhân và cởi mở về chính trị. Về mặt có lợi ích của Tòa Bảo hiến Liên bang, nó không chỉ bảo vệ pháp lý cho cá nhân. Thông thường, Toà cũng đã bảo vệ cho sự cởi mở của các tiến trình dân chủ nhằm chống lại các lợi ích khép kín và tự thiên vị của các đảng. Thẩm quyền tài phán hiến định và nền dân chủ đang trong tình trạng căng thẳng, nhưng không mâu thuẫn nhau.
Nếu người ta đang tìm một lời giải thích cho sự đánh giá khác nhau về thẩm quyền tài phán hiến định ở Hoa Kỳ và Đức, thì một mặt, chắc chắn ở Hoa Kỳ nền dân chủ đã tồn tại trước thẩm quyền tài phán hiến định và hiện nay thẩm quyền này dường như bị đe dọa đóng, việc này đóng một vai trò, trong khi đó, ở Đức và các nước khác ở châu Âu, Tòa Bảo hiến là một phản ứng đối với các kinh nghiệm của một nền dân chủ thất bại và nhằm mục đích là để bảo vệ cho nền dân chủ.
Tuy nhiên, mặt khác, sự khác biệt dựa trên tình trạng căng thẳng đang tồn tại giữa nhà nước pháp quyền và nền dân chủ, ở Đức có xu hướng giải quyết có lợi cho nhà nước pháp quyền và ở Hoa Kỳ ủng hộ cho nền dân chủ.
Bước ngoặt thời gian
Tháng Năm năm 1989, khi lễ kỷ niệm 40 năm ngày Luật Cơ bản được tổ chức và không ai biết rằng Cộng hòa Liên bang cũ sắp kết thúc, viêc đánh giá Luật Cơ bản đang ở đỉnh cao. Một cái gì đó bất thường như „tinh thần ái quốc theo hiến pháp“ đã khởi đầu, một niềm tự hào về đất nước của chính mình không còn được nuôi dưỡng bởi các nguồn theo tinh thần dân tộc, mà bằng cách tham gia vào một dự án phổ quát và thành công mà nó vừa có ở Cộng hòa Liên bang Đức. Điều này đã là khả thi bởi vì các nguồn thông thường của lòng yêu nước – quốc gia, lịch sử, văn hóa – không có sẵn ở một đất nước bị chia cắt, nơi bị gánh nặng bởi tội lỗi lịch sử của nạn diệt chủng Holocaust, và Luật Cơ bản đã có thể lấp đầy khoảng trống này.
Thanh danh phi thường của Luật Cơ bản cũng được đặt ra khi vấn đề hiến pháp chung cho toàn nước Đức trong tiến trình thống nhất được đề cập. Quốc hội Tây Đức và Nhân dân Nghị viện của CHDC Đức đã quyết định giữ lại Luật Cơ bản và không theo giải pháp lập ra một Hiến pháp mới, mà lẽ ra nó có thể thực hiện được theo Điều 146 của Luật Cơ bản. „Bảo tồn“ Luật Cơ bản lúc đó là một trong những lập luận được trích dẫn thường xuyên nhất, cùng với tốc độ nhanh, mà việc gia nhập có thể thực hiện được theo Điều 23 của Luật Cơ bản. Nhìn lại, cũng khó để làm rõ liệu đây có phải là một cơ hội bị bỏ lỡ cho sự cùng nhau trưởng thành của hai phía Đông và Tây không, cũng như vấn đề giải thích cho vấn đề liệu tình trạng căng thẳng ngày nay giữa hai phía Đông và Tây có thể tránh được bằng cách tân lập một đất nước thống nhất không.
Tuy nhiên, trong những năm sau, sau sự sụp đổ của Bức tường Berlin và các chế độ xã hội chủ nghĩa, lại thêm một kinh nghiệm nữa được minh chứng vào giữa những năm 1970, sau khi chế độ độc tài Nam Âu kết thúc. Luật Cơ bản và án lệ hiến pháp đã trở thành một mô hình cho nhiều quốc gia, hiện nay đã thông qua hiến pháp dân chủ mới và thành lập các tòa bảo hiến để bảo vệ.
Vào thời điểm đó, hết phái đoàn này đến phái đoàn khác đã đến Karlsruhe để trình bày, bởi vì, như đã được tái khẳng định nhiều lần, Cộng hòa Liên bang Đức được coi là một mô hình dân chủ ổn định sau khi sụp đổ nghiêm trọng, trong đó hiến pháp thông qua án lệ của Tòa Bảo hiến đã đạt được sự liên quan đáng kể và được chính giới tôn trọng.
Các thách thức
Do đó, Luật Cơ bản thực ra là một bản hiến pháp cũ, nhưng không phải lỗi thời. Ngay cả khi người ta có thể tưởng tượng ra được một sự điều chỉnh cách này hay cách khác của những thay đổi trước đó, sự phù hợp của nó trong hiện tại vẫn không bị phá vỡ. Tuy nhiên, trong năm kỷ niệm 2024, người ta có thể cân nhắc ít hơn trước với kỳ vọng rằng nó sẽ vẫn giử như vậy trong tương lai. Thay vào đó, những thay đổi đã xảy ra trong bối cảnh hiến pháp mà nó có hiệu lực gần như trên toàn thế giới và ảnh hưởng đến không chỉ hiến pháp này hay hiến pháp kia, mà cả nhà nước lập hiến nói chung. Cho đến nay, ngay cả khi những thay đổi này ít được chú ý hơn ở Cộng hòa Liên bang Đức so với nhiều quốc gia khác, không thể giả định rằng chúng sẽ không ảnh hưởng đến Luật Cơ bản.
Từ lâu, trào lưu quốc tế hóa còn đang tiếp tục diễn ra đã để lại những dấu ấn trong hiến pháp các mước. Số lượng các vấn đề ngày càng tăng không còn có thể được giải quyết thỏa đáng trong khuôn khổ hạn hẹp của quốc gia – nhà nước, các quốc gia buộc phải nhượng lại thẩm quyền lập quy cho các tổ chức siêu quốc gia. Tiến trình này đặc biệt tiến triển ở Liên minh châu Âu. Với mỗi sự chuyển quyền hoặc mở rộng thẩm quyền được nhượng lại thông qua cách thực hành chính trị hoặc quyền tài phán của các tổ chức siêu quốc gia, phạm vi áp dụng hiến pháp quốc gia bị thu hẹp. Khi làm như vậy, các quy định càng nhiều không còn phản ảnh được sự thật. Đúng là hiến pháp quốc gia quy định việc chuyển quyền. Tuy nhiên, nó không còn có ảnh hưởng nữa đến nhận thức qua các tổ chức siêu quốc gia.
Tuy nhiên, tiến trình này hình thành không vi phạm đến Luật Cơ bản, ngay từ đầu đã mở cửa cho sự hội nhập của Cộng hòa Liên bang vào các tổ chức siêu quốc gia. Thay vào đó, nó chỉ là một vấn đề về vấn đề sự giới hạn. Tòa Bảo hiến Liên bang đã trình bày về điều này nhiều lần. Toà bị lôi kéo đến những nơi mà việc chuyển quyền sẽ tước đi quá nhiều nội dung chính trị của Quốc hội đến nỗi Quốc hội sẽ không còn có thể thực hiện quyết định bỏ phiếu của công dân thành các chính sách quan trọng. Hơn nữa, bản sắc của Luật Cơ bản tạo ra một rào cản đối với hiệu quả của các hành vi pháp lý châu Âu. Và cuối cùng, theo quan điểm của Tòa Bảo hiến Liên bang, Luật Cơ bản cấm việc từ bỏ chủ quyền tối thượng của Đức và do đó việc chuyển đổi của Liên Âu trong một quốc gia có sự tham gia của Đức.
Ít cụ thể hơn, nhưng có nhiều hậu quả đáng kể hơn là những thay đổi trong bối cảnh hiến pháp, xuất phát từ lĩnh vực ý tưởng về trật tự chính trị. Nhà nước lập hiến với hai trụ cột nhà nước pháp quyền và nền dân chủ dường như đang mất dần sự ủng hộ, trong khi những ý tưởng khác về một trật tự tốt đẹp đang được ủng hộ. Chúng xuất hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau, nhưng cùng đồng ý rằng, chúng không xuất phát từ sự đa dạng về ý kiến và lợi ích được đưa ra theo kinh nghiệm và được công nhận là hợp pháp trong xã hội, mà nó vốn là cơ sở của Luật Cơ bản, nhưng nó giả định sự tồn tại của một lợi ích quốc gia thống nhất mà chính trị phải thực hiện.
Theo cách này, khái niệm về nền dân chủ đa nguyên của nhà nước lập hiến của Luật Cơ bản bị đối nghịch bởi một khái niệm về bản sắc, mà trong đó các điều khoản hiến định về tự do cá nhân, cạnh tranh về ưu tiên chính trị và cân bằng lợi ích trở nên lỗi thời. Trong những điều kiện này, tự do ngôn luận trở thành một mối nguy hiểm, sự phân quyền trở thành không giá trị, đối lập thành bất hợp pháp. Trong những điều kiện đó, tự do ngôn luận trở thành mối nguy hiểm, tình trạng phân quyền trở thành trở ngại, phe đối lập là bất hợp pháp, sự kiểm soát độc lập của tòa bảo hiến và truyền thông trở thành nhân tố gây rối, bảo vệ nhà nước pháp chống lại độc đoán thành chủ trương hình thức.
Điều này không có nghĩa là những người mang những ý tưởng như vậy từ chối hiến pháp. Nhưng chức năng hạn chế quyền lực đang trở nên lỗi thời. Nó phải cho phép thực hiện „ý chí thực sự của người dân“. Ngay khi Tòa Bảo hiến cũng không nhất thiết phải bị bãi bỏ, nhưng Toà sẽ được thiết lập và bố trí nhân sự theo cách mà Toà không cản trở việc thực hiện lợi ích được cho là thực sự của người dân, mà là hỗ trợ nó.
Những ý tưởng như vậy luôn tồn tại ở Cộng hòa Liên bang Đức. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, các suy nghĩ này không có cơ hội về chính trị hay xã hội. Các đảng theo các ý tưởng này đã không thành công trong các cuộc bầu cử liên bang. Điều đó đã thay đổi. Các ý tưởng đang tìm thấy sự cộng hưởng, với việc các đảng có màu sắc dân túy thâm nhập vào quốc hội. Sự phát triển này được kết hợp với sự thay đổi thái độ đối với các sự kiện, kiến thức và lập luận, mà phần lớn nó chồng lấp về mặt đạo đức.
Các tiêu chí để đánh giá là „tốt“ và „xấu“ chồng chất lên các tiêu chí „đúng“ và „sai“, các sự kiện không mong muốn được chống lại bởi „sự thật tương ưng có thể thay thế“. Do đó, sự thật trở thành một chức năng của việc nhận chân ra ý nghĩa. Cơ sở cho sự cảm thông giữa các quan điểm khác nhau đang biến mất dần. Các phương tiện truyền thông xã hội, ban đầu được hoan nghênh là họ trợ dân chủ, đang tăng cường và đẩy nhanh tiến trình này.
Mối liên hệ với Hiến pháp rất dễ rút ra. Những định chế phát triển mạnh trong các cuộc tranh luận về sự phân biệt giữa đúng và sai hoặc hợp pháp và bất hợp pháp, về khả năng tìm kiếm sự đồng thuận hoặc thỏa hiệp, đang là mục tiêu của những người theo trào lưu dân túy. Điều này áp dụng cho quốc hội, tư pháp, các phương tiện truyền thông, học viện và các lĩnh vực khác của xã hội. Họ được tin cậy trong chừng mực khi họ nằm trong tay của những đồng quan điểm đúng đắn; nếu không, họ phải đối mặt với cáo buộc về thao túng. Mục tiêu của cuộc tranh luận chính trị không còn là đa số có thể thực thi các ưu tiên riêng trong một khoảng thời gian giới hạn, giử cho các giải pháp tương ưng của đối thủ còn hiện diện, nhưng là sự loại bỏ họ.
Bảo vệ nhà nước lập hiến dân chủ
Do đó, vấn đề đặt ra là liệu các hiến pháp cam kết với sự hiểu biết về dân chủ đa nguyên có thể tự bảo vệ mình chống lại sự chuyển đổi hệ thống không. Tất nhiên, Luật Cơ bản ra đời là để đáp ứng với một kinh nghiệm như vậy. Cái gọi là dân chủ phòng thủ với ba công cụ của nó, đó là tước bỏ các quyền cơ bản theo Điều 18, cấm các đảng chính trị theo Điều 21 và cấm lập hội theo Điều 9 của Luật cơ bản thường được đồng thuận, nhưng việc tước bỏ các quyền cơ bản là chưa bao giờ. Các lệnh cấm đảng đã được áp đặt hai lần trong giai đoạn đầu của Cộng hòa Liên bang Đức, sau đó hai kiến nghị cấm NPD đã thất bại, lần cuối cùng vì nó theo đuổi các mục tiêu chống hiến pháp nhưng không có triển vọng thực hiện ý định. Bài học về sự trỗi dậy của NSDAP, „Chống sự khởi đầu“, phụ thuộc vào nguyên tắc tương đối.
Xét cho cùng, Luật Cơ bản cung cấp các công cụ cần thiết liên quan đến các nỗ lực chống hiến pháp. Nếu nó không được sử dụng và nếu các đảng tìm một sự chuyển đổi hệ thống có thể tham gia vào việc cạnh tranh giữa các đảng, phần lớn việc này phụ thuộc vào luật bầu cử. Thật đáng để xét đến Hungary và Ba Lan: các đảng theo dân túy của cả hai nước đã được trao cho cơ hội để chuyển đổi hệ thống của họ, không chỉ vì luật bầu cử của họ.
Đảng Luật pháp và Công lý (Die Partei Recht und Gerechtigkeit, PiS) của Ba Lan giành được đa số ghế tuyệt đối với khoảng 36% phiếu bầu, trong khi đảng Công dân cánh hữu bảo thủ Fidesz của Hungary giành được đa số hai phần ba số ghế với khoảng 53% phiếu bầu. Luật bầu cử Quốc hội Đức sẽ không cho phép làm điều này. Nhưng nó chỉ được quy định bởi luật thông thường. Do đó, tình trạng đa số tương đối trong Quốc hội có thể tạo được dễ dàng quyền bầu cử có lợi cho họ.
Một khi một đảng theo dân túy đã giành được đa số trong quốc hội, vấn đề về việc đảng này có thể thực hiện bao nhiêu kế hoạch, điều này phụ thuộc vào các Tòa Bảo hiến. Tất cả các kinh nghiệm với các đảng theo dân túy đã đạt được đa số cho thấy rằng, sự chuyển đổi bắt đầu bằng việc loại bỏ hoặc tuân thủ Tòa Bảo hiến.
Tòa Bảo hiến Liên bang có ảnh hưởng lớn lao không chỉ bởi thực tế là cuộc bầu cử thẩm phán đòi hỏi phải có đa số hai phần ba trong Quốc hội hoặc Thượng viện, cho đến nay đã ngăn chặn „thành phần chạy theo đảng“ một chiều trong tòa. Tuy nhiên, ngay cả yêu cầu hai phần ba cũng chỉ được luật quy định, không phải ở bình diện hiến pháp, và do đó không được bảo vệ chống lại những thay đổi bởi đa số đơn giản.
Một đặc thù của luật hiến pháp Đức có thể trở nên quan trọng hơn trong thời kỳ thông tin sai lệch và độc đoán. Trái ngược với nhiều hệ thống hiến pháp khác, Luật cơ bản phân biệt giữa ý kiến và khẳng định thực tế.
Ngay cả ngày nay, nếu các cáo buộc thực tế cố ý hoặc được minh chứng là sai sự thật, thì không được hưởng bất kỳ sự bảo vệ nào trong quyền cơ bản. Cho đến nay, trong thực tế, điều này chỉ trở nên có liên quan đến việc phủ nhận diệt chủng Holocaust. Một mơ ước khẩn thiết là từ đó rút ra những hậu quả tất yếu cho các phương tiện truyền thông xã hội. Sự khởi đầu đã được thực hiện, nhưng luật hiến pháp quốc gia đang đạt đến giới hạn của nó ở đây. Điều cần thiết là hành động đoàn kết của quốc gia lập hiến.
Do đó, Luật Cơ bản không phải là không chuẩn bị cho những nỗ lực làm suy yếu nó, làm tê liệt nó hoặc định hình lại nó theo nghĩa độc đoán. Nhưng nguồn lực riêng của Hiến pháp có hạn. Luật hiến pháp không tự mình thực hiện. Nó phụ thuộc vào việc thực hiện. Phần lớn việc thực hiện này phụ thuộc vào các điều kiện không thuộc về pháp lý. Đây là nơi mà một lần nữa nhìn lại Hiến pháp Weimar, cuối cùng, nó không đủ sự hỗ trợ trong xã hội và các tổ chức để có thể chống lại tình trạng băng hoại. Cộng hòa Liên bang Đức vào năm 2024 khác xa với hoàn cảnh của thời Weimar. Nhưng đó không phải là lý do để cảm thấy an toàn. Việc cảnh báo như vậy là cần thiết, nhằm phân biệt kỷ niệm 75 năm thành lập Luật Cơ bản với những lần kỷ niệm trước.
***
Dieter Grimm là Giáo sư hồi hưu Đại học Humboldt Berlin, khoa Công Pháp và là cựu Hiệu trưởng Trường Wissenschaftskolleg Berlin. Từ năm 1987 – 1999, ông là thẩm phán của Tòa Bảo hiến Liên bang Đức. Bài liên quan: Vai trò của Toà Bảo Hiến – Các nước đang phát triển có nên du nhập thể chế pháp quyền của phương Tây không?