Peter Harvey
Đỗ Kim Thêm dịch

Kampuchia, sau khi bị bom của Mỹ tàn phá trong chiến tranh Việt Nam, kể từ năm 1975 lại là nạn nhân dưới sự lãnh đạo của Cộng sản Khmer Đỏ, mà họ theo hệ tư tuởng Mao. Mục tiêu theo đuổi của họ là thiết lập một xã hội công bình, với ảo tưởng dựa trên nông nghiệp tự túc, không lệ thuộc ảnh hưởng ngoại lai.
Thực tế, điều này có nghĩa là xoá bỏ nền văn minh hiện hửu, thị dân bị cưởng bức thành nông dân trong các trại hợp tác hoá cưc kỳ hà khắc, bệnh viện bỏ trống chỉ có y học dân tộc được chấp nhận, tu tập theo tôn giáo bị xử tử. Trong nhiều lảnh vực, sinh hoạt gia đình bị huỷ bỏ, nơi nào còn tồn tại thì trẻ con có quyền ra lịnh cho ngưòi lớn. Khmer Đỏ đã hành quyết một cách có hệ thống những ngưòi chống lại họ. Họ chọn ra những ngưòi sắc tộc thiểu số, những người có học vấn, các tăng ni mả họ coi là sống bám xã hội. Họ lập ra một cánh đồng tàn sát (killing fields) và giết từ 2 đến 3 triệu người bằng cách bỏ đói, bệnh tật, làm việc kiệt sức, tra tấn, hành hình, gia đình phân tán, tuyệt vọng và bị trầm cảm.
Dưới thời kỳ cai trị của Khmer Đỏ hầu hết 3600 tu viện Phật giáo đã bị phá huỷ và chỉ còn lại khoảng 3000 sư tăng trong số 50000 còn sống và nhiều ni cô đã chết.
Một điều may mắn khi Khmer Đỏ tấn công vào biên giới Việt Nam bị Việt Nam phản công lại Kampuchia. Với sư đồng tình của những người Khmer Đỏ ly khai, Việt Nam kiểm soát Kampuchia vào năm 1979. Thập kỷ 1980 đã chứng kiến xung đột có vũ trang liên tục giửa Khmer Đỏ, lực lượng dân tộc và chính quyền do Việt Nam lập ra. Năm 1989, do áp lực của Liên Hiệp Quốc, Việt Nam đã rút quân để lại một chính phủ bù nhìn. Năm 1991, tất cả các phe đã ký một hoà ước do Liên Hiệp Quốc thu xếp, nhằm dự liệu một chính phủ lâm thời bốn bên, đưa tới tổng tuyên cử vào năm 1993.
Trong khi hoà ước cố chấm dứt bạo lực Khmer Đỏ bằng cách cho họ tham gia vào trong tiến trình hòa giải dân tộc. Họ tỉếp tục những cuộc hành quân, đặc biệt nhất là gần vùng biên giới Thái phía tây Kampuchia cho đến khi những thúc đẩy cho tiến trình hoà bình đạt được vào năm 1998.
Mahà Ghosànanda
Một khuôn mặt nổi bật trong công tác hàn gắn và phục hồi đất nước là Maha Ghosànanda, một vị sư có tầm ảnh hưỏng có thể so sánh với Mahàtma Gandhi và được đề cử nhận giải Nobel hoà bình vào năm 1996.
Dith Pran, người là đề tài chính trong phim The Killing Fields đã nói về Ghosànanda như sau: „Dù toàn gia đình ông bị thảm sát trong đại hoạ, ông không tỏ ra chua chát. Ông ta là biểu tượng cho Phật gíao Kampuchia, hiện thân của lòng từ ái, khoan dung và tĩnh lặng của Đức Phật.“
Jack Korfiel nói: „Trong hai mươi năm quen biết với ông, ông là một người biểu hiện cho tôi lòng rộng lượng ngọt ngào, sự can đảm liên tục. Chỉ cần sự có mặt của ông, chỉ cần có nụ cười của ông, chỉ có tình thân ái của ông khôi phục được các vấn đề tâm linh.“
Ghosànanda xuất gia sau khi chứng kiến những đau khổ của chiến tranh khi đống minh tấn công Nhật tại Kampuchia. Ông tu học tại Kampuchia và Ấn, sau đó tu thiền tại Thái. Tại Ấn ông làm việc trong một nhóm cứu trợ cho nạn đói tại Bihạr vào năm 1967 và ông đã học những phương thức về hiếu hòa và bất bạo động từ Nichdatsu Fujìi, người cũng đã chịu ảnh hưởng nơi Mahàtma Gandhi ít nhiều.
Năm 1978, sau khi Khmer Đỏ bị đánh bại, Ghosànanda đến trại tỵ nạn Sa Kaeo tại Thái và phân phối kinh sách về giáo lý từ bi của Đức Phật.
Ông bắt đầu dựng các chùa bằng tre, mặc dù Khmer Đỏ dọa dân chúng trong trại sẽ nguy hiểm đến tính mạng khi hợp tác, nhưng 200.000 người đã tham dự lể khai mạc. Ghosànanda tụng nhiều lần cho dân chúng nghe kinh Pháp cú: „Trên thế gian này hận thù sẽ không chấm dút hận thù; hận thù chỉ chấm dứt bằng không hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa.“
Ông thường xuyên nhằc nhở dân chúng rằng hoà bình của đất nước chỉ có thể bất đầu bằng tâm trạng an bình của từng cá nhân. Cùng với đưòng lối này, ông tổ chức cuộc họp hàng tuần cho các vị lãnh đạo tinh thần các tôn giáo Phật, Hồi và Thiên Chúa giáo, thúc dục họ cùng làm việc phục vụ cho hoà bình và hoà giải. Tháng tư và năm 1980 đã có khoảng 120.000 ngưòi tỵ nạn trong trại này và các trại khác đã cùng nhau dành hai ngày cho thiền định và cầu nguyện cho hoà bình. Đa số là Phật tử nhưng cũng đã có nhiều tín đồ Thiên chúa và Hồi giáo tham gia.
Lời cầu nguyện cho hoà bình do Ghosànanda soạn ra có đoạn sau đây:
„Nổi đau khổ của Kampuchia quá sâu thẩm
Từ sự đau khổ này mà phát sinh lòng từ tâm vô biên
Lòng từ tâm vô biên đem lại một tâm trạng an hoà
Một tâm trạng an hoà tạo nên một con người an lạc
Một người an lạc dẫn tới gia đình hoà ái
Một gia đình hoà ái tạo nên một cộng đồng yên ổn
Một cộng đồng yên ổn tạo nên một đất nước bình yên
Một đất nưóc bình yên tạo nên một thế giới hoà bình
Cầu xin chúng sinh sống trong hạnh phúc và hoà bình.“
Khi tham gia việc tu tập các sư Thái đã giúp xây dựng các tu viện tại các trại tỵ nạn và tổ chức những ngày cầu nguyện cho hoà bình, tổ chức trường học và chương trình giáo dục tráng niên.
Tuy thế, năm 1980 quân đội Thái đã đuổi những người trong trại tỵ nạn Sa Kaeo này về lại bên kia biên giới vì họ muốn không thể dùng trại tỵ nạn để hổ trợ cho Khmer Đỏ và cũng không muốn chuyện này xãy ra thường xuyên.
Ý thức được sự khó khăn và nguy hiểm khi phải trở lại Kampuchia, Ghosànanda và các người khác đã tuyên bố dùng trại tỵ nạn như tu viện. Trong khi việc này không làm ngưòi Thái hài lòng vì chỉ có 7500 người Khmer Đỏ trong số 35.000 người tỵ nạn trong trại phải ra đi.
Ghosànanda làm việc và thăm viếng nhiều trại tỵ nạn và các cộng đồng tỵ nạn định cư khắp thế giới, thiết lập tu viện tại các nơi này, giúp các nhà lãnh đạo tinh thần xây dựng những chương trình bảo tồn văn hoá giáo dục và tâm linh.
Năm 1980, cùng với Peter Pond, một người hoạt động xã hội của Thiên Chuá giaó, ông đã thành lập Uỷ Ban Liên Tôn đặc nhiệm cho hoà bình tại Kampuchia. Họ giúp định cư các tăng ni còn sống sót để họ có thể phục hồi lời khấn nguyện và nằm giử vai trò lãnh đạo tại các tu viện của Kampuchia khắp thế giới.
Với sự trợ giúp của các cư sĩ, Ghosànada đã lập hơn 30 tu viện tại Hoa kỳ và Canada. Ông đã giúp trùng tu nhiều tu viện tại Kampuchia, ông tích cực hoằng hoá các tăng ni trong việc sử dụng kỷ năng bất bạo động và theo dỏi mọi hoạt động về nhân quyền.
Tại các cuộc hoà đàm do Liên Hiệp Quốc bảo trợ ông đã hướng dẫn một số tăng ni và thúc dục hoà giải và bất bạo động.
Khi dân chúng chống đối sư hiện diện của người Khmer Đỏ trong chính phủ lâm thời, ông cười và nói: „Chúng ta phải có hiểu biết và từ tâm. Chúng ta phải kết án các hành vi nhưng chúng ta không thể ghét người hành động. Với tình yêu thương chúng ta có thể là tất cả mọi điều nhằm đảm bảo cho hoà bình cho mọi ngưòi. Không còn cách nào khác.“
Ông cũng bình luận thêm rằng: „ Ác tâm cũng phải kể luôn vào trong từ tâm của chúng ta, bởi ví chính nó là điều mà ngưòi ta rất cẩn thương yêu nhiều nhất.
Nếu tôi đối xử tốt đẹp với một người nào đó, thì ngườì đó sẽ học điều này và đến phiên họ sẽ đối xử tốt đẹp với người khác. Nếu tôi không tốt với họ, họ sẽ ấp ủ lòng thù oán và đến phiên họ lại tiếp tục gây cho ngưòi khác. Nếu thế giơi này không tốt đẹp thì tôi sẽ không nổ lực nửa để cải thiện chính mình.“
Ông trích dẫn tư tưởng bất bạo động của Gandhi khi nhắm vào cứu cánh của mọi sự đối nghịch mà không nhắm vào cá nhân người đối nghịch. Đó là điều quan trọng. Chúng ta tôn trọng sự đối kháng. Điều này bao hàm rằng chúng ta tin vào tính nhân bản của họ và hiểu rằng ác ý là do vô minh gây ra. Bằng cách kêu gọi làm những điều tốt đẹp cho nhau, cả hai chúng ta sẽ đạt đến sự an hoà. Gandhi gọi đó là một thắng lợi cho cả hai.
Ông thấy kiến tạo hoà bình là môt diễn trình chậm chạp, nhưng đều đặn vả từng bước một. Trong ý nghiã này thì hoà giải không có nghiã là từ bỏ các quyền lợi và điều kiện, nhưng chính ra chúng ta sử dụng tình yêu thương trong tất cả mọi cuộc thương thảo, ngoài ra không còn cách nào khác vượt qua vòng thù oán.
Khi nói về lòng từ bi thiếu thực tế khi không dùng trí tuệ, ông kể chuyện một vị vua đã từ bỏ việc chém giết. Bồ tát đã khuyên vua rằng dù khi bị trẻ con tấn công nhưng vua vẫn còn có thể bày tỏ sự bất bình khi cần thiết và trong tinh thần bất bạo động.
Trong thời kỳ dẫn tới những cuộc tuyển cử vào năm 1993 Ghosànanda, lúc này đã 69 tuổi, đã hướng dẫn một cuộc diển hành cho hoà bình 19 ngày gần vùng biên giới Thái xuyên qua lãnh thổ Khmer Đỏ, tới thủ đô Phnom Penh, nơi đó có 8.000 cùng tham dự. Thường thì những cuộc diển hành này có nguy hiểm vì do bắn sẻ và được Liên Hiệp Quốc quan tâm theo dỏi vấn đề an ninh.
Dù vậy, thì cuối cùng lòng kiên quyết và niềm tin đã vượt thắng và Khmer Đỏ cho phép họ đi qua không hề bị nguy hại và tạo đưọc một khung cảnh an lành khi họ diễn hành. Ý tưỏng của Ghosànanda là hoà bình chỉ có được ở nơi nào mà người dân có thể đi trên đường phố mà không sợ hải và chính với sự bình an trong tâm hồn minh.
Ghosànanda đã tổ chức nhiều cuộc diễn hành cho hoà bình tại Kampuchia. Vào tháng tư và năm 1994 ông đi bộ 175 cây số với 800 tăng ni từ Battanbang đến Angkor Wat xuyên qua vùng tây bắc nơi chiến tranh còn tác động. Trên đường đi dù có binh sĩ của chính quyền tháp tùng cuộc diễn hành và hướng dẫn họ qua các bải mìn, đã có một vị tăng và một ni cô bi chết bị bắn từ buị rậm.
Ông đã đóng vai trò lãnh đạo trong chiến dịch tháo gở các bải mìn tại Kampuchia và các nơi khác và hướng dẫn một phái đoàn liên tôn hổ trợ cho hòa đàm tại Sri Lanka. Ông trích dẫn phương cách của Phật giáo để giải quyết xung đột Sàkya/Sri Lanka và kêu goị Phật tử có can dự vào xung đột giúp giải quyết vấn đề.
Ghosànanda dạy về tầm quan trọng của Thuyết Trung Đạo và hoà bình, tránh mọi đấu tranh với ngưòi đối nghịch bằng việc khen chê, phân biệt cái của anh và của tôi.
Tư tưởng của ông về đường lối đưa tới hoà bình như sau:
“Bất bạo động là nguồn gốc của mọi hoạt động. Chúng ta có thể làm được gì đóng góp cho hoà bình trong một thế giới bất an là điều quá ít. Và chính vì thế, khi chúng ta bắt đầu xây dựng hoà bình, chúng ta bắt đầu bằng sự quân bình do thiền định và cầu nguyện.
Kiến tạo hoà bình đòi hỏi lòng từ tâm. Nó đòi hỏi sự kheó léo khi lắng nghe. Khi lắng nghe, chúng ta phải tự quên mình ngay cả ngôn ngữ của chúng ta. Chúng ta nghe cho đến lúc nào mà chúng ta có thể nghe được bản tính hiếu hoà của chính chúng ta lên tiếng. Khi chúng ta nghe chính tiếng lòng mình thì chúng ta mới học cách nghe tiếng nói của tha nhân. Và từ đó tư tưởng mới sẽ nảy sinh. Phải có sự cởi mở và hài hoà. Khi chúng ta tin lẩn nhau, chúng ta khám phá khả năng mới để giải quyết các tranh chấp. Khi chúng ta nghe thật tường tận, chúng ta sẽ nghe hoà bình đang ló dạng.
Kiến tạo hoà bình đòi hỏi sư tĩnh thức, ý thức sâu xa về một thế giới nội tâm và ngoại cảnh. Không có hoà bình vói lòng tỵ hiềm, không chính trực hoặc phê phán vô nghiã. Chúng ta phải xác quyết là kiến tạo hoà bình quan trọng hơn là gây chiến.
Kiến tạo hoà bình đòi hỏi tinh thần vị tha. Chính tinh thần vị tha tạo nên cội rể. Kiến tạo hoà bình, kỷ năng trong làm việc tập thể và hợp tác là điều chủ yếu.
Chúng ta có thể làm gì để phục vụ cho hoà bình và cảm thấy chính chúng ta là người tiếp thu được phương cách này thì việc này còn quá it người. Người thật sự đóng góp cho hoà bình sẽ phấn đấu cho hòa bình không vì vinh quang hay ngay cả vinh dự. Nỗ lực cho danh vọng hay vinh dự chì làm hại cho những phấn đấu này.
Kiến tạo hoà bình đòi hỏi khôn ngoan. Hoà bình là một con đường được chọn lưạ với ý thức. Nó không phải là sự lang thang không mục đích nhưng là một cuộc du hành từng bước một.
Kiến tạo hoà bình bằng đường lối trung dung trong thư thái, không đối nghịch triệt để và không bị ràng buộc. Kiến tạo hoà bình có nghĩa là một sự quân bình tuyệt hảo giửa trí tuệ và từ bi, một sự gặp gở tuyệt vời của nhu cầu nhân đạo và thực tại chính trị. Nó có nghiã là từ bi nhưng không nhân nhượng và hoà bình không xoa diụ. Từ bi chính là phương cách duy nhất đề đạt tới hoà bình.
Phụ chú của người dịch: Bản dịch là một trích đoạn từ War and Peace, chương VI trong tác phẩm An Introduction to Buddhist Ethics: Foundations, Values and Issues của Peter Harvey do nhà xuất bản Cambridge University Press ấn hành năm 2000, từ trang 239-285. Toàn chương VI trước đây đã được phổ biến trên trang mạng Thư Viện Hoa Sen và nhiều trang mạng khác với tựa đề: „Chiền tranh và Hoà bình theo quan điểm Phật giáo“
Phụ chú của người dịch: Bản dịch là một trích đoạn từ War and Peace, chương VI trong tác phẩm An Introduction to Buddhist Ethics: Foundations, Values and Issues của Peter Harvey do nhà xuất bản Cambridge University Press ấn hành năm 2000, từ trang 239-285. Toàn chương VI trước đây đã được phổ biến trên trang mạng Thư Viện Hoa Sen và nhiều trang mạng khác với tựa đề: „Chiền tranh và Hoà Bình theo quan điểm Phật giáo“
Ein Gedanke zu “Tác động của Phật giáo trong việc khôi phục Kampuchia”